Bản án về tội trộm cắp tài sản số 91/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 91/2021/HSST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2021/HSST ngày 13/8/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2021/QĐXXST-HS ngày 01/9 /2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hồng Đ, sinh ngày 21/4/1983 tại thành phố Hà Nội; nơi cư trú: khu phố C, phường T, thị xã H, tỉnh B; nghề nghiệp: làm biển; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; con ông: Lê Văn L ( chết) và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1955; vợ Lê Thị Tường V, sinh năm 1991 ( đã ly hôn); có 03 con lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân xấu:

- Ngày 22/11/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Cố ý gây thương tích” đã chấp hành xong bản án và đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

2- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

3- Bà Trần Thị V, sinh năm 1971 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

4- Ông Đỗ Văn L, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

5- Ông Lý Thành H, sinh năm 1986 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn G, xã H, thị xã H, tỉnh B.

6- Ông Huỳnh B, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

7- Ông Huỳnh T, sinh năm 1971 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

8- Ông Phan H, sinh năm 1969 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Mai Thị L, sinh năm 1975 ( có mặt).

Nơi cư trú: khu phố T 2, phường T, thị xã H, tỉnh B.

- Người làm chứng:

Chế Thị D, sinh năm 1959 ( vắng mặt).

Nơi cư trú: khu phố T, phường H, thị xã H, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 28/02/2021, Lê Hồng Đ điều khiển xe mô tô BKS 77C1-281.12 của bạn gái là Mai Thị L (sinh năm 1975, ở khu phố T 2, phường T, thị xã H, tỉnh B) đến bến cá Phước Tiến thuộc khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B để bơm nước cho tàu cá BĐ95562TS của anh trai Lê Đại Đ (sinh năm 1981, ở khu phố C, phường T, thị xã H, tỉnh B). Đến 19 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi bơm nước xong, Đ thấy một số tàu thuyền neo đậu tại đây không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó, Đ dùng thúng bơi đến các tàu lén lút chiếm đoạt nhiều tài sản, cụ thể như sau:

1. Tàu BĐ95787TS của bà Nguyễn Thị L (sinh năm 1968, ở khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 01 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành triên), loại cước màu trong, khối lượng 7kg; 01 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, khối lượng 3kg;

01 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, khối lượng 2kg và 01 thùng sữa hiệu Yomilk gồm 16 lốc, mỗi lốc 04 hủ, tổng cộng 64 hủ.

Căn cứ Kết luận số 25/HĐĐGTS ngày 06/5/2021 và Công văn số 50/HĐĐGTS ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn thì tổng giá trị các tài sản nêu trên trị giá 2.346.000 đồng.

2. Tàu BĐ95381TS của bà Nguyễn Thị H (sinh năm 1971, ở khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 02 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu trong, khối lượng mỗi cuộn 3kg; 01 thùng sữa hiệu Milo gồm 48 hủ; 01 thùng nước ngọt hiệu RedBull gồm 24 lon; 01 bao gạo 25kg.

3. Tàu BĐ97605TS của bà Trần Thị V (sinh năm 1971, ở khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 02 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, khối lượng mỗi cuộn 3kg và 01 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành triên), khối lượng 7kg; 01 thùng sữa hiệu TH, gồm 48 hủ; 06 lốc sữa Milo, mỗi lốc 04 hộp, tổng cộng 24 hộp; 12 chai nước ngọt hiệu Dr. Thanh.

Căn cứ Kết luận số 25/HĐĐGTS ngày 06/5/2021 và Công văn số 50/HĐĐGTS ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn thì tổng giá trị các tài sản nêu trên trị giá 2.832.000 đồng.

4. Tàu BĐ95908TS của ông Đỗ Văn L (sinh năm 1966, ở khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đăng lén lút lấy trộm 01 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, khối lượng 3kg.

Căn cứ Kết luận số 25/HĐĐGTS ngày 06/5/2021 và Công văn số 50/HĐĐGTS ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn thì giá trị tài sản nêu trên trị giá 780.000 đồng.

5. Tàu BĐ95002TS của ông Lý Thành H (sinh năm 1986, ở thôn G, xã H, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 02 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, khối lượng mỗi cuộn 3kg.

Căn cứ Kết luận số 25/HĐĐGTS ngày 06/5/2021 và Công văn số 50/HĐĐGTS ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn thì tổng giá trị các tài sản nêu trên trị giá 1.560.000 đồng.

6. Tàu BĐ98287TS của ông Huỳnh B (sinh năm 1966, ở khu phố T 2, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 02 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, trong đó 01 cuộn khối lượng 3kg và 01 cuộn khối lượng 2kg.

Căn cứ Kết luận số 25/HĐĐGTS ngày 06/5/2021 và Công văn số 50/HĐĐGTS ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn thì tổng giá trị các tài sản nêu trên trị giá 1.300.000 đồng.

7. Tàu BĐ97333TS của ông Huỳnh T (sinh năm 1971, ở khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 02 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu trong, khối lượng mỗi cuộn 3kg.

8. Tàu BĐ94502TS của ông Phan H (sinh năm 1969, ở khu phố T 1, phường T, thị xã H, tỉnh B): Đ lén lút lấy trộm 03 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành thẻo), loại cước màu xanh, khối lượng mỗi cuộn 3kg và 01 cuộn cước dùng để câu cá (thường gọi là bành triên), loại cước màu trong, khối lượng 7kg.

Căn cứ Kết luận số 25/HĐĐGTS ngày 06/5/2021 và Công văn số 50/HĐĐGTS ngày 12/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn thì tổng giá trị các tài sản nêu trên trị giá 2.970.000 đồng.

Ngoài ra, Lê Hồng Đ còn trộm một số tài sản trên các tàu thuyền khác nhưng không xác định rõ vị trí, chủ sở hữu, gồm: 02 cuộn cước dùng để câu cá (bành triên), loại cước màu trong, khối lượng mỗi cuộn 7kg; 04 cuộn cước dùng để câu cá (bành triên), loại cước màu trắng liên doanh, mỗi cuộn 3kg; 03 cuộn cước dùng để câu cá (bành thẻo), loại cước màu xanh, trong đó 01 cuộn khối lượng 3kg, 02 cuộn khối lượng mỗi cuộn 1,5kg; 04 cuộn cước dùng để câu cá (bành thẻo), loại cước màu trong, trong đó 02 cuộn khối lượng mỗi cuộn 3kg, 02 cuộn khối lượng mỗi cuộn 2kg.

Sau khi lấy được tài sản, Đ bỏ tất cả vào thúng và bơi vào bờ. Trong quá trình di chuyển, 01 thùng nước ngọt hiệu RedBull, 12 chai nước ngọt hiệu Dr. Thanh, 01 thùng và 06 lốc sữa Milo bị thấm nước, rơi rớt. Sau khi đưa số tài sản trộm được lên bờ, Đ dùng xe mô tô BKS 77C1-281.12 chở về khu vực rừng dương ở gần nhà cất giấu. Đến khoảng 09 giờ ngày 01/3/2021, Lê Hồng Đ đến khu vực cất giấu chở tất cả 32 cuộn cước trộm được đến cơ sở buôn bán ngư cụ của bà Chế Thị D (sinh năm 1959, ở khu phố T, phường H, thị xã H, tỉnh B) để bán thì bị phát hiện. Riêng bao gạo Đ đem về nhà sử dụng còn lại 15kg.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ và trả lại các tài sản tương ứng với số lượng, đặc điểm nêu trên cho các bị hại. Riêng 01 thùng sữa hiệu Milo, 01 thùng nước ngọt hiệu RedBull, 10kg gạo của bà Nguyễn Thị H và 06 lốc sữa Milo, 12 chai nước ngọt hiệu Dr. Thanh của bà Trần Thị V, đã truy tìm nhưng không tìm thấy. Lê Hồng Đ đã bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền 925.000 đồng và bồi thường cho bà Trần Thị V số tiền 262.000 đồng. Các bị hại không có yêu cầu gì thêm;

Về dân sự: Tài sản đã thu hồi và trả lại cho các bị hại và bồi thường khắc phục hậu quả xong cho bị hại.

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKSHN ngày 13 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Lê Hồng Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Hồng Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hồng Đ từ 09 đến 12 tháng tù.

Về dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu giải quyết về dân sự của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hồng Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình, không bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoài Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo Lê Hồng Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên HĐXX có đủ cơ sở xác định: Trong đêm 28/02/2021, bị cáo Lê Hồng Đ đã lén lút chiếm đoạt tài sản là nông ngư cụ trên các tàu cá đã xác định được chủ sở hữu 08 bị hại với giá trị tài sản chiếm đoạt được là 15.713.00 đồng. Ngoài ra bị cáo còn chiếm đoạt tài sản của một số tàu cá khác nhưng chưa xác định được bị hại với tài sản chiếm đoạt trị giá 6.880.000 đồng.

Bị cáo Lê Hồng Đ có đầy đủ sức khỏe, năng lực để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải biết việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của nhiều người là nông ngư cụ của người dân mua sắm để chuẩn bị cho chuyến ra khơi đánh bắt cá. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 15.713.000 đồng nên bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, phạm vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội ở địa phương nên cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tội phạm.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 22/11/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 tháng về tội “Cố ý gây thương tích” đã được xóa án tích đương nhiên.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tài sản thu hồi và trả lại cho bị hại, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại xong, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo có nhân thân xấu, ngày 22/11/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, tuy được xóa án tích nhưng bị cáo không xem đó là bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa mới có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Tài sản đã thu hồi và trả lại tòa bộ cho các bị hại, giữa bị cáo và các bị hại đã thảo thuận bồi thường xong, các bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đối với bà Mai Thị L là người cho bị cáo mượn xe mô tô 77C1-281.12 đi bơm nước ghe. Việc bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bà L không biết. Do đó, Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoài Nhơn đã trả lại tài sản cho bà L xe mô tô 77C1-218.12 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

[7] Đối với các tài sản: 06 ( sáu) cuộn bành triên màu trong gồm 02 cuộn 07kg; 04 cuộn 03kg; 03 ( ba) cuộn bành thẻo màu xanh gồm 01 cuộn 03kg, 02 cuộn 1,5kg; 04 ( bốn) cuộn bành thẻo màu trong gồm 02 cuộn 03kg và 02 cuộn 02kg. Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoài Nhơn đã ra thông báo tìm kiếm nhưng không tìm được bị hại nên tách ra khi nào tìm được bị hại sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

[9] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của BLTTHS năm 2015; đim đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Lê Hồng Đ thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Hồng Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

* Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Hồng Đ 12 ( mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

* Về bồi thường thiệt hại: Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

* Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

* Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Hồng Đ được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 91/2021/HSST

Số hiệu:91/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về