Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 90/2023/HS-ST NGÀY 03/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 03 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2023/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 02 năm 2023; Thông báo dời ngày xét xử ngày 14/02/2023, đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Văn L, sinh năm 1990, tên gọi khác: Lắc. Tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Không xác định; Hộ khẩu thường trú: 495, tổ 11, khu phố 2, phường A thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn):

06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Lượm, sinh năm 1965 (đã chết) và bà Trần Thị Lành, sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: Ngày 23-12-2020, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 6 (Sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt truy nã ngày 06/12/2022. Bị cáo đang bị giam, giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa từ ngày 06/12/2022 (Có mặt).

2/ Nguyễn Hùng P, sinh năm 1986. Tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Không xác định; Hộ khẩu thường trú: 375, tổ 9, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 04/12; dân tộc:

Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hùng Dũng, sinh năm 1963 và bà Lê Thị H, sinh năm 1964; bị cáo chưa có vợ con;

Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 16-3-2020, bị Uỷ ban nhân dân phường An Hoà xử phạt 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản. Đến nay P chưa nộp phạt theo quy định.

Bị cáo bị bắt truy nã ngày 15/11/2022. Bị cáo đang bị giam, giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa từ ngày 15/11/2022 (Có mặt).

- Bị hại: Chị Lê Mộng T, sinh năm 1981 Địa chỉ: khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

(Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trịnh Hồng V, sinh năm 1978 Địa chỉ: khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn VănL là người đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, Nguyễn Hùng P là người đã có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 29-9-2021,L rủ P đi trộm cắp tài sản thì P đồng ý. Sau đó,L và P đi bộ từ nhà củaL tại số A, tổ X, khu phố Z, phường An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, khi cả hai đến trước nhà số 331, tổ 8, khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai do chị Lê Mộng T làm chủ thì phát hiện trước sân nhà có 01 (Một) xe đẩy đựng dừa nênL dùng tay mở hàng rào lưới B40 trước nhà rồi P vàL đi vào trong, đẩy chiếc xe đựng dừa trên về nhàL cất giấu. Tại nhàL, P vàL đếm được 50 (Năm mươi) trái dừa nên cả hai để lại nhàL 20 (Hai mươi) trái dừa để sử dụng, số còn lại P vàL để lên xe đẩy mang đi bán cho người đi đường (Không rõ nhân thân, địa chỉ) với giá 10.000đ/trái, được tổng số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Sau khi bán hết dừa, trên đường đi về ngang nhà số 392A, tổ 10, khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng NaiL và P đã bán chiếc xe đẩy trên cho ông Trịnh Hồng V ngụ tại số B, tổ V, khu phố E, phường An Hòa, thành phố Biên Hòa với giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng). Tổng số tiền P vàL bán tài sản trộm cắp có được là 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) đã tiêu xài hết. Sự việc xảy ra, chị T đến Công an phường An Hòa trình báo sự việc. Công an phường An Hòa lập hồ sơ, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) xe đẩy (bị hư hỏng 02 bánh) thuộc sở hữu của chị T. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi trả lại cho chị T.

vụ án.

- 01 (Một) USB lưu trữ hình ảnh liên quan đến việc phạm tội: lưu hồ sơ Đối với 50 (Năm mươi) trái dừa sau khi trộm cắp được,L và P đã sử dụng và bán cho người đi đường (Không rõ họ tên, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 427/KL-HĐĐGTS ngày 14/10/2021 kết luận: 01 (Một) xe đẩy tự chế bằng sắt có giá trị 208.000đồng và 50 (Năm mươi) trái dừa xiêm 500.000đồng, có tổng giá trị định giá tài sản là 708.000đ (Bảy trăm lẻ tám nghìn đồng).

Về dân sự: Bị hại Lê Mộng T yêu cầu bị cáo Nguyễn VănL và Nguyễn Hùng P bồi thường theo quy định của pháp luật. Ông Trịnh Hồng V không yêu cầu các bị cáo bồi thường.

Tại Cáo trạng số: 606/CT-VKSBH ngày 30/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn VănL đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Nguyễn Hùng P đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a, b khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn VănL, Nguyễn Hùng P. Tình tiết tăng nặng: Không. Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với ông Trịnh Hồng V ngụ tại số 392A, tổ 10, khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã mua chiếc xe đẩy nhưng không biết đây là tài sản doL và P trộm cắp mà có nên không có cơ sở xử lý.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn VănL từ 10 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. sản”.

- Bị cáo Nguyễn Hùng P từ 06 tháng đến 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài - Về dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn VănL và Nguyễn Hùng P bồi thường cho chị Lê Mộng T số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Ông Trịnh Hồng V không yêu cầu các bị cáo bồi thường.

- Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với qui định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; qua đó đã có căn cứ để kết luận: Vào khoảng 00 giờ 05 phút ngày 29/9/2021, tại nhà số 331, tổ 8, khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn VănL và Nguyễn Hùng P đã có hành vi trộm cắp 01 (Một) xe đẩy tự chế bằng sắt và 50 (Năm mươi) trái dừa xiêm có tổng giá trị định giá tài sản là 708.000đồng (Bảy trăm lẻ tám nghìn đồng) của chị Lê Mộng T. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn VănL và Nguyễn Hùng P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác nên cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, sống tuân thủ pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo Nguyễn VănL là người rủ rê đồng thời tích cực thực hiện hành vi phạm tội nên có vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Hùng P.L và P cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng không có sự câu kết chặt chẽ với nhau cũng không có sự phân công, bàn bạc, sắp đặt vai trò và hứa hẹn ăn chia cụ thể như thế nào, các bị cáo phạm tội mang tính đồng phạm, song ở mức độ giản đơn.

[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thì thấy:

- Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Đối với ông Trịnh Hồng V ngụ tại số 392A, tổ 10, khu phố 2, phường An Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã mua chiếc xe đẩy nhưng không biết đây là tài sản doL và P trộm cắp mà có nên không có cơ sở xử lý. [5] Xử lý vật chứng:

- 01 (Một) xe đẩy (bị hư hỏng 02 bánh) thuộc sở hữu của chị T. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi trả lại cho chị T.

vụ án.

- 01 (Một) USB lưu trữ hình ảnh liên quan đến việc phạm tội: lưu hồ sơ Đối với 50 (Năm mươi) trái dừa sau khi trộm cắp được, bị cáoL và P đã sử dụng và bán cho người đi đường (Không rõ họ tên, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà không thu hồi được.

[5] Về dân sự: Chị Lê Mộng T yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng). Tại phiên tòa bị cáo đồng ý trả số tiền 500.000đồng cho chị T, Hội đồng xét xử nghi nhận sự tự nguyên của các bị cáo. Ông Trịnh Hồng V không yêu cầu các bị cáo bồi thường , nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn VănL phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn VănL 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 12 năm 2022.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hùng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng P 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 11 năm 2022.

2. Về dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn VănL và Nguyễn Hùng P cùng liên đới bồi thường cho chị Lê Thị Mộng T số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2023/HS-ST

Số hiệu:90/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về