Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 90/2021/HS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh ngày 07 tháng 9 năm 1993 tại xã ĐT, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi ĐKHKTT: Thôn LH, xã ĐT, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: không; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1961 và con bà Phùng Thị L, sinh năm 1962 (đã chết); vợ: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1994 (kết hôn ngày 07/6/2021), con: Không có; Tiền án: 01.

Tại Bản án số 10/HSST ngày 19/4/2016 của Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc và Bản án 34/HSPT ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Văn H 5 năm tù về tội Trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 162.700.000 đồng; H phải chịu án phí HSST: 200.000 đồng, án phí DS/HS: 375.000 đồng, xử phạt: 10.000.000 đồng, truy thu: 19.700.000 đồng, liên đới bồi thường cho anh Tạ Văn S số tiền 7.500.000 đồng.

Ngày 7/12/2019 chấp hành xong án phạt tù. (Chưa được xóa).

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án 105/HSST ngày 29/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xử phạt Nguyễn Văn H 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng giá trị trộm cắp là 5.300.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/2012, chấp hành xong khoản án phí ngày 23/11/2012. (Đã được xóa).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/7/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc. (có mặt).

- Bị hại: Ông Đặng Quốc P, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn QK, xã TK, huyện BX, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1990. Địa chỉ: Khu A, xã HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh Đặng Đức M, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn QK, xã TK, huyện BX, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

+ Anh Đặng Duy Q, sinh năm 2004. Địa chỉ: Thôn QK, xã TK, huyện BX, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ ngày 01/5/2021, Nguyễn Văn H một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YE BKS: 88E1-097.16 đi từ nhà đến thăm chị Nguyễn Thị H1 đang ở trọ ở thôn QK, xã TK, huyện BX, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến khoảng 05 giờ H điều khiển xe đi đến đường nội thôn tiếp giáp với tường bao loan gia đình ông Đặng Quốc P thì H nghe thấy tiếng chim sáo hót và H dừng xe lại rồi quan sát qua bờ tường bao loan nhà ông P (bờ tường cao khoảng 1,5m) thấy dưới phần mái tôn ở sân phía trước cửa nhà ông P có treo 01 lồng chim bằng kim loại bên trong lồng có 01 con chim sáo đá (Tên gọi khác: Sáo lang, cà kiêng) lông màu trắng, xám, đen thì H nảy sinh ý định trộm cắp con chim Sáo nhà ông P để mang về chơi. H quan sát xung quanh không có người, H trèo qua bờ tường bao loan vào bên trong nhà ông P đi đến vị trí treo lồng chim rồi nhấc lồng chim ra khỏi móc treo và cầm lồng chim đi ra phía bờ tường bao loan để trèo ra ngoài. Lúc này, Đặng Duy Q là con trai ông P đang ở trong nhà thấy tiếng chó cắn thì nhìn qua cửa phòng khách ra ngoài sân phát hiện H cầm chiếc lồng chim đang trèo tường để ra bên ngoài đường, cháu Q chạy đuổi theo H, hô hoán mọi người “trộm, trộm” và Q cũng trèo tường ra bên ngoài đường theo sau đuổi kịp bắt được H gần vị trí chiếc xe mô tô của H dựng ở ria đường. Đồng thời lúc này ông P và con trai cả của ông P là anh Đặng Đức M cũng ra tới nơi bắt giữ H và trình báo cơ quan Công an đến lập biên bản sự việc và thu giữ các vật chứng gồm: 01 lồng chim bằng kim loại màu xám cùng 01 con chim Sáo; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YE màu xanh trắng BKS: 88E1-079.16; 01 căn cước công dân của Nguyễn Văn H. Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên, H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Ngày 22/5/2021, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên có Yêu cầu định giá tài sản số 74 đề nghị Hội đồng định giá tài sản định giá 01 con chim sáo đá và 01 chiếc lồng chim. Ngày 15/6/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện BX ra Bản kết luận định giá tài sản số 67/KL- HĐĐGTS kết luận: Giá trị của con chim sáo đá là 1.133.000 đồng, giá trị của lồng chim là 183.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 1.316.000 đồng.

Cáo trạng số: 98/CT-VKSBX, ngày 18 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H đã thừa nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Kiểm sát viên phát biểu luận tội đối với bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 07 tháng tù đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 01/7/2021. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị hại ông Đặng Quốc P vắng mặt tại phiên tòa, nhưng lời khai trong quá trình điều tra và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 10 tháng 9 năm 2021 ông xác nhận toàn bộ sự việc bị cáo H trộm cắp tài sản của ông, ông đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về bồi thường và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo H.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hữu T vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai trong quá trình điều tra và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 13 tháng 9 năm 2021, anh xác nhận chiếc xe mô tô bị cáo H mượn là xe của anh, khi anh cho H mượn anh không biết việc H sử dụng xe làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, anh đã nhận lại xe, anh không có yêu cầu đề nghị gì.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều đã có lời khai trong quá trình điều tra xác nhận bị cáo H đã có hành vi trộm cắp tài sản của ông Đặng Quốc P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như: Lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường; phù hợp với vật chứng thu giữ được. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 05 giờ ngày 01/5/2021, tại nhà ông Đặng Quốc P, Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc lồng chim bên trong có 01 con chim Sáo đá của ông P, tổng trị giá tài sản H trộm cắp là 1.316.000 đồng. Bản thân H có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích.

Hành vi của Nguyễn Văn H trộm cắp tài sản có giá trị 1.316.000 đồng khi bản thân có 01 tiền án chưa được xóa án tích, đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản", được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác…..dưới 2.000.000 đồng nH thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…..b) Đã bị kết án về tội này …. của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm…”.

[3] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:

Bị cáo Nguyễn Văn H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn (1.316.000 đồng) và đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo Nguyễn Văn H là người có nhân thân xấu, bị cáo đã 02 lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” trong đó có 01 Bản án chưa được xóa án tích, sau khi chấp hành án xong bị cáo lại tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện, coi thường pháp luật, vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, buộc bị cáo phải cách ly khỏi cuộc sống cộng đồng để chấp hành hình phạt tù một thời gian theo như mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành những người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng vụ án:

Đối với 01 chiếc lồng chim bằng kim loại màu xám cùng 01 con chim Sáo, quá trình điều tra xác định là của ông Đặng Quốc P. Ngày 02/5/2021, cơ quan cảnh sát điều tra đã giao trả lại cho ông P. Sau khi nhận lại tài sản, ông P không có ý kiến, đề nghị gì, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YE màu xanh trắng BKS: 88E1-079.16 quá trình điều tra xác định được chủ sở hữu là anh Nguyễn Hữu T. Ngày 01/5/2021, anh T cho H mượn xe nhưng không biết H dùng xe để đi trộm cắp tài sản. Ngày 23/7/2021, cơ quan cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên trả lại chiếc xe cho anh T là phù hợp.

Đối với 01 thẻ căn cước công dân của Nguyễn Văn H không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, ngày 26/6/2021, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 08 (Tám) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 01/7/2021.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2021/HS-ST

Số hiệu:90/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về