Bản án về tội trộm cắp tài sản số 89/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC – TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 89/2022/HS-ST NGÀY 22/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2022/QĐXXST- HS, ngày 02 tháng 8 năm 2022 và Thông báo dời phiên tòa số 04/2022/TB-TA ngày 05/8/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn V, sinh ngày 07 tháng 9 năm 1985; Tại P - K Nơi cư trú: Khu phố .., phường D, thành phố P, tỉnh K. Chỗ ở: Ấp C, xã C, thành phố P, tỉnh K. Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 01/12; dân Tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C và bà Phạm Thị Th; vợ Võ Thị Ph, sinh năm 1989; tiền án: 01 lần bị Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, tại bản án số 81/2020/HS-ST ngày 05/7/2020, chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa xóa án tích; tiền sự: Chưa.

Về nhân thân: Bị Tòa án nhân dân cấp Cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm tuyên phạt 10 năm tù về tội Cướp tài sản, theo điểm a và điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, tại bản án số 142 ngày 22/9/2006, chấp hành xong hình phạt đã xóa án tích.

Ngày 07/3/2022, bị cáo thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại ấp Cây Thông Ngoài, xã Cửa Dương, thành phố Phú Quốc (có mặt).

– Người bị hại: Chị Lê Hồng H, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp Ô, xã C, thành phố P, tỉnh K (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 23/12/2021, Nguyễn Văn V điều khiển xe mô tô biển số 68P1 – 207.49 mượn của chị Võ Thị Mỹ T đi công việc, khi xe chạy đến đoạn đường thuộc tổ 2, ấp Ông Lang, xã Cửa Dương, thành phố Phú Quốc, V nhìn thấy trước nhà chị Lê Hồng H có nhiều cây mai vàng trồng trong chậu, không có ai trông coi. Thấy vậy, V nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này khoảng 14 giờ 15 phúc cùng ngày, V dừng xe mô tô cách nhà chị H khoảng 10 mét, rồi đi bộ vào trước sân vườn chị H nhổ 01 cây mai vàng trong chậu mang ra ngoài để trên xe mô tô chạy đi. V chở cây mai chạy đi được một đoạn thì anh Trần Thanh H là người làm thuê trong nhà chị H phát hiện truy hô thì V tăng ga bỏ chạy. Thấy vậy, anh H điều khiển xe mô tô chở chị H đuổi theo. Đến 15 giờ cùng ngày, V chở cây mai chạy đến đoạn đường thuộc ấp Cây Thông Ngoài, xã Cửa Dương thì anh H đuổi kịp và dẫn V đến Công an xã Cửa Dương trình báo. Ngày 07/3/2022, Nguyễn Văn V bị Cơ quan điều tra – Công an thành phố Phú Quốc khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 cây mai vàng, vành gố 26cm, chiều cao 1,34 mét, tán ngang 01 mét, cây trong tình trạng sống khỏe. 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha jupiter, màu đỏ đen, biển kiểm soát 68P1 – 207.49, số khung: 1PB30EY053306, số máy: 1PB3 – 053328.

Bản kết luận giám định tài sản số 04, ngày 18/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phú Quốc kết luận: 01 cây mai vàng, vành gố 26cm, chiều cao 1,34 mét, tán ngang 01 mét, cây trong tình trạng sống khỏe. Tại thời điểm tháng 12 năm 2021, trị giá 6.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 81/CT-VKSPQ ngày 08/7/2022, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc, giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: 01 cây mai vàng, vành gố 26cm, chiều cao 1,34 mét, tán ngang 01 mét đã trả cho chủ sở hữu đề nghị miễn xét.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Lê Hồng H xác nhận đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến bào chữa thống nhất với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Lời nói sau cùng của các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phú Quốc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện điều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc truy tố.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ được trong vụ án, kết luận giám định, lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 14 giờ 15 phút, ngày 23/12/2021, tại ấp Ông Lang, xã Cửa Dương, thành phố Phú Quốc, Nguyễn Văn V lén lút lấy trộm 01 cây mai vàng của chị Lê Hồng H, trị giá 6.000.000 đồng. Do đó, cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bản thân bị cáo là thanh niên có đầy đủ sức khỏe và nhận thức được tài sản của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, nhưng bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản người bị hại để lén lút lấy trộm tài sản của họ một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương nên cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tôi khi chưa được xoá án tích của bản án hình sự sơ thẩm số 81/2020/HS-ST ngày 05/7/2020 của Tòa án Phú Quốc nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đồng thời bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, hoàn cảnh bị cáo khó khăn hiện là lao động chính trong gia đình nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5]. Về quan điểm của Viện kiểm sát: Đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc về tội danh, mức hình phạt, biện pháp tư pháp đối với bị cáo là phù hợp.

[6]. Về các vấn đề khác:

Về xử lý vật chứng: 01 cây mai vàng, vành gố 26cm, chiều cao 1,34 mét, tán ngang 01 mét đã trả cho chủ sở hữu nên không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Lê Hồng H xác nhận đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với chị Võ Thị Mỹ T cho bị cáo mượn xe không biết bị cáo sử dụng đi trộm cắp nên không xử lý, đồng thời đã trao trả cho chị Tiên chiếc xe nên không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn V 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựđiểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sư.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

778
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 89/2022/HS-ST

Số hiệu:89/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về