TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 89/2020/HS-ST NGÀY 29/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 29 tháng 10 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H oàng Mai, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm,công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2020/HSST, ngày 07 tháng 10 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:125/2020/QĐ XXST-HS ngày 16/10/2020 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Văn H (Tên gọi khác: không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 14 tháng 8 năm 1996 tại thị xã H , Nghệ An; Nơi cư trú: khối Q, phường Q,thị xã H , tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Họ và tên cha: Không xác định; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; Anh chị em ruột: không có , bị cáo là con duy nhất.Vợ, con: chưa có. Tiền án: Ngày 27/5/2019 bị TAND thị xã H xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 50/2019/HS- ST bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/01/2020;Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 30/9/2014 bị TAND thị xã H, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 09 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số: 59/2014/HS-ST và Ngày 02/12/2014 bị TAND huyện Ba Vì, thành phố H Nội xử phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 122/2014/HS-ST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù của hai bản án vào ngày 01/5/2016. Thời điểm Nguyễn Văn H phạm tội và bị xét xử là người chưa thành niên phạm tội nên theo Điều 107 Bộ luật hình sự năm 2015 thì được coi là không có án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/8/2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Ngƣời bị hại:
+/ Chị Nguyễn Thị Thu H , sinh năm 1986.
Trú tại: khối Tân Ái, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An ( Có mặt).
+/ Ông Hoàng Đức T , sinh năm 1944.
Trú tại: khối Á, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An ( Vắng mặt).
+/ Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1977.
Trú tại: khối Q, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An ( Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong ngày 05 và 14/8/2020, Nguyễn Văn H thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Trước ngày 04/8/2020 thì Chị Nguyễn Thị Thu H , sinh năm 1986, trú tại khối Thân Ái, phường Quỳnh Phương, thị xã H , Nghệ An có nhờ Nguyễn Văn H sinh sống gần nhà thay bóng điện trong nhà bị hỏng. Do đi lại quen biết gia đình chị H đã lâu Nguyễn Văn H biết được gia đình chị H có tài sản, nên có ý định trộm cắp tài sản của gia đình chị H. Khoảng 14 giờ ngày 04/8/2020 thì Nguyễn Văn H đi đến nhà chị H để mua nước uống, đồng thời hỏi chị H về việc thay bóng đèn thì chị H đồng ý. Do có ý thức trộm cắp tài sản từ trước, nên trước khi thay bóng đèn điện tại tầng hai của ngôi nhà chị H, Nguyễn Văn H biết được tại tầng 2 có một chiếc thang sắt leo lên mái nhà, nên H leo thang lên mở chốt cửa sắt đi lên mái nhà, có cơ hội sẽ đột nhập vào nhà chị H để trộm tài sản. Sau khi mở được cửa cửa sắt đi lên mái nhà, thì H đã thay bóng đèn bị cháy tại tầng hai cho chị H rồi đi về nhà của mình. Đến khoảng 00 giờ ngày 05/8/2020 Nguyễn Văn H đi bộ từ nhà mình đến nhà chị H. Đến nơi H trèo qua cổng đột nhập vào nhà ngôi nhà của chị H. Quan sát Nguyễn Văn H thấy có 01 chiếc ghế gỗ để ở ban công nên đã khiêng ghế đến bên chiếc cột ở giữa, trèo lên ghế, bám vào cột và leo lên mái nhà. Nguyễn Văn H đi đến chiếc cửa sắt mà H mở sẵn trước đó đi theo cầu thang đi vào tầng 2, sau đó đi theo cầu thang xuống tầng trệt (tầng 1). Lúc này Nguyễn Văn H thấy gia đình chị H có lắp camera an ninh nên H đã lấy mũ và áo khoác nắng tại chân cột cầu thang mặc vào để che mặt.Tại tầng 1, H đi đến chỗ chiếc tủ nhựa 03 ngăn, mở ngăn giữa thấy có 01 tệp tiền nhiều mệnh giá được quấn lại bằng dây giun và mấy tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 20.000 đồng, H lấy hết bỏ vào túi quần bên phải. H tiếp tục mở ngăn kéo thứ 3 thấy một tệp tiền mệnh giá 500.000 đồng, liền lấy bỏ vào túi quần bên trái. Sau khi lấy được tiền, H đi đến chân cầu thang trả lại mũ, sau đó đi đường cũ lên mái nhà, cởi áo khoác nắng vứt tại đó rồi đi về nhà. Sau khi lấy trộm được số tiền 64.000.000 đồng của chị H thì Nguyễn Văn H bắt xe ra H nội, tại Hà Nội Nguyễn Văn H đã tiêu xài hết số tiền 64.000.000 đ.Quá trình điều tra truy tố, Nguyễn Văn H chưa trả, bồi thường cho Chị Nguyễn Thị Thu H số tiền 64.000.000 đồng, chị H yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn H trả lại số tiền số tiền 64.000.000 đồng.
Vụ thứ hai: Sau khi từ Hà Nội về, Nguyễn Văn H không về nhà mình, lúc này khoảng 23 giờ ngày 14/8/2020 Nguyễn Văn H đi đến nhà Ông Hoàng Đức T tại khối Ái Quốc, phường Quỳnh Phương, thị xã H , Nghệ An với mục đích trộm tài sản. Đến nơi Nguyễn Văn H trèo tường đi đến mở cửa bếp, sau đo đi theo nhà bếp lên nhà trên của ông T. Quan sát thấy có 01 chiếc quần treo ở ghế nên H đến lục túi quần lấy được số tiền 550.000 đồng. Tiếp tục lục lọi thì thấy trên bàn uống nước có 01 chiếc chìa khóa xe máy, H cầm chìa khóa đi ra sân mở thử chiếc xe Nouvo BKS 37P6- X là tài sản của Chị Hoàng Thị T là con gái ông T để tại nhà ông T thì thấy mở được. H dắt xe ra, mở cửa cổng và nổ máy chạy theo quốc lộ 1A hướng vào thành phố Vinh để bán. Điều khiển xe chạy xe đến khu vực ngã ba xã Quỳnh Hậu, huyện Quỳnh Lưu thì xe hết xăng, do chìa khóa không đúng, nên không mở được cốp xe để đổ xăng. Do vậy Nguyễn Văn H để xe lại dọc đường và bắt xe taxi quay về nhà ông T với ý định tìm đúng chiếc chìa khóa xe Nouvo mà Nguyễn Văn H trộm cắp. Đi đến nhà ông T Nguyễn Văn H thấy nhà ông T đã dậy mở cửa, đỏ đèn nên H không thực hiện được ý định lấy chiếc chìa khóa của xe do mình trộm cắp, mà bỏ trốn khỏi địa bàn.
Chiếc xe Nouvo BKS 37P6- X do H trộm cắp sau đó đã được người dân giao nộp cho Công an xã Quỳnh Hậu, huyện Quỳnh Lưu và Công an xã Quỳnh Hậu, huyện Quỳnh Lưu đã bàn giao lại cho Công an thị xã H.
Vụ việc bị phát hiện Nguyễn Văn H biết không thể trốn tránh được, nên ngày 22/8/2020 đã đến Công an thị xã H xin đầu thú.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 13 ngày 04/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã H kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Nouvo BKS 37P6- X, đã qua sử dụng có giá trị 5.600.000 đồng .
Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Văn H chiếm đoạt của Chị Nguyễn Thị Thu H và gia đình Ông Hoàng Đức T được xác định là 70.150.000 đồng.
Việc thu giữ vật chứng; xử lý vật chứng :
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Nouvo BKS 37P6- X, quá trình điều tra xác định được đây tài sản hợp pháp của Chị Hoàng Thị T nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã H đã trả lại cho chị Trang.
- 01chiếc áo phông ngắn tay màu trắng, size L, cổ tròn, nhãn hiệu GUDEDAO, trước ngực có hoa văn thu giữ của Nguyễn Văn H. Đã chuyển chi cục Thi hành án dân sự thị xã H bảo quản chờ xử lý.
- 01 thẻ nhớ bên trong chứa video trích xuất từ camera an ninh của cửa hàng Chị Nguyễn Thị Thu H đựng vào một phong bì thư bưu điện dán kín.
Trách nhiệm dân sự:
Chị Nguyễn Thị Thu H yêu cầu Nguyễn Văn H trả lại cho chị số tiền 64.000.000 đồng.
Ông Hoàng Đức T không yêu cầu Nguyễn Văn H trả lại 550.000 đồng. Chị Hoàng Thị T đã nhận lại tài sản bị mất nên không yêu cầu gì thêm.
Tại bản cáo trạng số: 87/CT-VKS-HM, ngày 03 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Văn H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xử lý đối với bị cáo như sau:
- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173, điểm, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù .
- Vật chứng vụ án: Căn Cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS và Điều 47 của BLHS.
Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo phông ngắn tay màu trắng, size L, cổ tròn, nhãn hiệu GUDEDAO, trước ngực có hoa văn thu giữ của Nguyễn Văn H.
- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải có nghĩa vụ trả lại cho Chị Nguyễn Thị Thu H số tiền 64.000.000 đồng.
Nguyễn Văn H trộm của Ông Hoàng Đức T số tiền 550.000 đồng, ông T không yêu cầu bị cáo bồi thường, nhưng đây là tiền thu lợi bất chính, đề nghị truy thu tại bị cáo để sung quỹ nhà nước.
- Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo, người bị hại không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, bị cáo đề nghị hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ buộc tội: Trong các ngày 05/8/2020 và ngày 14/8/2020, Nguyễn Văn H đã lén lút thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An cụ thể:
Khoảng 00 giờ ngày 05/8/2020 Nguyễn Văn H đã đột nhập vào ngôi nhà hai tầng của chị của gia đình chị Nguyễn Thị H, tại khối Thân Ái, phường Quỳnh Phương, thị xã H , Nghệ An đã trộm của chị Nguyễn Thị H tiền là 64.000.000 đồng mà chị H để trong tủ nhựa 3 ngăn ở tầng dưới. Sau khi trộm được số tiền của Chị Nguyễn Thị Thu H , Nguyễn Văn H đã bắt đi xe đi H nội, quá trình ở Hà Nội Nguyễn Văn H tiêu xài phục vụ cá nhân hết toàn bộ số tiền trộm cắp của chị Nguyễn Thị H.
Ngày 14/8/2020 Nguyễn Văn H từ H nội về, khoảng 23 giờ ngày 14/8/2020 Nguyễn Văn H đi đến khu vực gia đình Ông Hoàng Đức T tại khối Ái Quốc, phường Quỳnh Phương, thị xã H , Nghệ An với mục đích trộm cắp tài sản. Đến nơi Nguyễn Văn H trèo tường đột nhập vào nhà bếp sau đó đi lên nhà trên trộm của ông T 550.000 đồng mà ông T bỏ trong túi quần treo ở ghế. Quá trình lục lọi tài sản để tiếp tục trộm cắp thì H thấy một chiếc chìa khóa xe mô tô đang để ở bàn.Thấy vậy Nguyễn Văn H lấy chìa khóa này đi ra sân đến chổ chiếc xe mô tô nhân hiệu Nouvo BKS 37P6- X của Chị Hoàng Thị T con gái ông T đang để ở sân, Nguyễn Văn H dùng chìa khóa mở ổ khoá điện thì thấy mở được, nên Nguyễn Văn H đã trộm mô tô nhân hiệu Nouvo BKS 37P6- X. Sau khi trộm được xe Nguyễn Văn H điều khiển xe đưa vào thành phố Vinh đi tiêu thu thì xe hết xăng dọc đường, chìa khóa xe không đúng chủng loại nên H không thể mở cốp để đổ xăng, nên Nguyễn Văn H để chiếc xe lại dọc đường, quay về nhà ông T để tìm kiếm chìa khóa Nouvo BKS 37P6- X. Đến nơi H thấy gia đình ông T đã thức nên không thể vào nhà ông T để tìm chìa khóa được, thấy vậy Nguyễn Văn H bỏ trốn khỏi địa bàn. Đến ngày ngày 22/8/2020 thì Nguyễn Văn H đến đến Công an thị xã H đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Chiếc xe mô tô Nguyễn Văn H trộm của Chị Hoàng Thị T đã được người dân phát hiện giao cho Công an xã Quỳnh Hậu, huyện Quỳnh Lưu, sau đó bàn giao lại cho Công an thị xã H điều tra xử lý.Xe mô tô Nouvo BKS 37P6- X được hội đồng định giá có giá trị 5.600.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Văn H chiếm đoạt của hai vụ trộm được xác định là 70.150.000 đồng.
Căn cứ lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn H, lời khai của những người bị hại, vật chứng thu được, kết quả định giá tài sản và các chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ quan điều tra đã xác định Nguyễn Văn H phạm tội trộm cắp tài sản, nên Cơ quan điều tra, điều tra viên đã tiến hành các hoạt động tố tụng theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự như ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, dụng biện pháp ngăn chặn đối với Nguyễn Văn H, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của các bị hại để làm cơ sở để xử lý đối với Nguyễn Văn H về tội Trộm cắp tài sản theo qui định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trên cơ sở điều tra và các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An đã truy tố Nguyễn Văn H về tội Trộm cắp tài sản, theo tình tiết định khung tăng nặng qui định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng.
Đây và một vụ án thuộc loại án nghiêm trọng, hành vi của Nguyễn Văn H lén lút đột nhập vào nhà của Chị Nguyễn Thị Thu H , Ông Hoàng Đức T để trộm cắp tài sản là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh, táo bạo xem thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sử hữu tài sản của công dân được nhà nước và pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an ninh, gây bất bình cho những người bị hại nói riêng và quân chúng nhân dân nói riêng. Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật, có trình độ văn hóa chắc chắn bị cáo hiểu rỏ rằng hành vi do các bị cáo thực hiện là phạm tội, bắt được sẽ xử lý nghiêm minh. Tuy biết vậy nhưng vì lười lao động thích thụ hưởng, nên bị cáo đã bỏ qua tất cả để thực hiện trộm cắp tài của các bị hại với mục đích là phục vụ cá nhân. Xét thấy cần xử lý nghiêm minh, cách ly các bị cáo ra người xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung là cần thiết.
[2] Đánh giá tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với vị cáo:
- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, đã đến cơ quan điều tra đầu thú là những tình tiết mà bị cáo được hưởng.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đang có một án tích chưa được xóa án, nay tiếp tục phạm tôi là tái phạm tình tiết tăng nặng qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS. Bị cáo thực hiện hai hành vi trộm cắp nên bị cáo phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo qui định tại diểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.
Căn cứ vào tính chất vụ án, mức độ thực hiện những hành vi trộm cắp mà bị cáo đã thực hiện, cũng như xét đến nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng đối bị cáo. Thấy rằng cần xử phạt bị cáo 48 tháng tù là phù hợp, tuy niên xét thấy quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo thành khẩn khai bó tỏ thái độ ăn năn hối cải, nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo phần nào để thể hiện tính chất nhận đạo của pháp luật.
[3] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Văn H 01chiếc áo phông ngắn tay màu trắng, size L, cổ tròn, nhãn hiệu GUDEDAO, trước ngực có hoa văn, xét đây là vật chứng của vụ án, xét không có gíá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 thẻ nhớ bên trong chứa video trích xuất từ camera an ninh thu giữ của Chị Nguyễn Thị Thu H . Xét đây là chứng cứ chứng minh quá trình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản Nguyễn Văn H tại gia đình chị Nguyễn Thị H, cần lưu giữ theo hồ sơ vụ án.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Nouvo BKS 37P6- X, quá trình điều tra xác định được đây tài sản hợp pháp của Chị Hoàng Thị T nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã H đã trả lại cho chị Trang là đúng.
[4]Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn H trộm cắp của Chị Nguyễn Thị Thu H số tiền 64.000.000 đồng, bị cáo đã tài xài hết số tiền này,chưa trả lại hay bồi thường cho bị hại, nay người bị hại yêu cầu bị cáo trả lại là đúng, cần buộc bị cáo phải trả lại cho chị Nguyễn Thị H số tiền trên.
Đối với số tiền 550.000 đồng do bị cáo trộm của ông Hoàng Đức T, ông T không yêu cầu bị cáo trả lại nên miễn xét. Nhưng xét thấy số tiền này là do bị cáo thu lợi bất chính nên cần truy thu tại bị cáo để sung quỹ nhà nước.
Chị Hoàng Thị T đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô do bị cáo Nguyễn Văn H trộm cắp,chị không yêu cầu gì thêm ,nên miễn xét.
[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ điểm c khoản 02 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo (Ngày 22/8/2020).
3. Về xử lý vật chứng: Căn Cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS và Điều 47 của BLHS.
-Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo phông ngắn tay màu trắng, size L, cổ tròn, nhãn hiệu GUDEDAO, trước ngực có hoa văn theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã H và Chi cục thi hành án dân sự Hoàng Mai ngày 06/10/2020 .
4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật dân sự.
Buộc: Bị cáo Nguyễn Văn H phải có nghĩa vụ trả lại cho Chị Nguyễn Thị Thu H số tiền 64.000.000đ ( Bằng chữ: Sáu mươi tư triệu đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền người thi hành án phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất của số tiền phải thi hành án, theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sư năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b,c khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo phông ngắn tay màu trắng, size L, cổ tròn, nhãn hiệu GUDEDAO, trước ngực có hoa văn thu giữ của Nguyễn Văn H theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã H và Chi cục thi hành án dân sự thị xã H ngày 06/10/2020.
Truy thu số tiền thu lợi bất chính 550.000 đ ( Năm trăm năm mươi nghìn đồng) tại Nguyễn Văn H để sung công quỹ nhà nước.
6.Án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án Buộc: Bị cáo NguyễnVăn H phải nộp 200.000đ ( Bằng chữ:Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.200.000 đ ( Bằng chữ: Ba triệu hai trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
7. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Những người bị hại khác vắng mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 89/2020/HS-ST
Số hiệu: | 89/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về