Bản án về tội trộm cắp tài sản số 86/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 08/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 79/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Trọng H; sinh năm: 1991 tại Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp B, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; nơi ở: /(không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Hùng D (chết) và bà: Lê Thu H (chết); tiền án: 01 (ngày 02/02/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 03 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Bản án số 20/2015/HS- ST); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/11/2019 bị Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 184/HSST; bị bắt giữ ngày: 19/8/2021.

- Bị hại:

(Bị cáo có mặt).

Ông Lê Minh H – Sinh năm: 1994 (vắng mặt).

Địa chỉ: Cao ốc A, Phường B, Quận D, TP.HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Bà Nguyễn Lan P – Sinh năm: 1988 (vắng mặt). Địa chỉ: Phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc.

2/Bà Nguyễn Thị T – Sinh năm: 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường T, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3/Ông Phạm Duy Q – Sinh năm: 1982 (vắng mặt).

Địa chỉ: B đường N, Phường H, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 05/5/2018, Phạm Duy Q điều khiển xe môtô biển số 88S6-5487 chở Lê Trọng H đến Cao ốc A Chung cư Ngô Gia Tự, Phường 3, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh gặp ônh Lê Minh H hỏi xem nhà (cho thuê) nhưng thực chất nhằm mục đích để điều nghiên, thực hiện trộm cắp tài sản. Q lên căn hộ 8.02 Cao ốc A chung cư Ngô Gia Tự, H đứng dưới trông xe; do ông H bận đi đám cưới nên Q ra về, rồi nói với H là nhìn thấy nhà ông H có nhiều tài sản. Khoảng 18 giờ 06 phút cùng ngày, Q và H dẫn ông Huỳnh Văn L (là thợ sửa khóa) đến mở khóa nhà ông H và trả công cho ông L 100.000 đồng; sau đó, Q và H vào phòng ngủ của ông H lén lút lấy các tài sản, bao gồm:

01 máy tính xách tay hiệu Macbook Retina 15 inch, 01 tivi hiệu Asanzo 32 inch, 01 box tivi bộ nhớ 2Gb, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Seiko, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Citizen, 04 chai rượu vang, một số quần áo, giày cũ; riêng: 01 Ipad mini, 01 nhẫn vàng 18K trọng lượng 02 chỉ thì H lấy và không nói cho Q biết, về phía Q khai không thấy H lấy và cũng không được chia. Sau khi trộm cắp được những tài sản trên, Q và H về nhà trọ của H cất giấu tài sản, rồi Q tiếp tục chở H quay lại nhà ông H để tiếp tục chiếm đoạt tài sản gồm: 01 bếp hồng ngoại hiệu FUJIYAMA, 01 quạt phun sương, một số quần áo, mũ, giày cũ (Tất cả hành vi của Q và H đã được camera hành lang Cao ốc ghi hình lại). Sau đó, Q và H đi về nhà trọ của H tại chung cư An Bình, Phường 5, Quận 5 chia nhau tài sản đã trộm cắp được (trừ các tài sản: 01 Ipad mini, 01 nhẫn vàng 18K trọng lượng 02 chỉ). Đến khoảng 00 giờ 45 phút ngày 06/5/2018, ông H phát hiện bị mất tài sản nên nhờ bảo vệ Cao ốc cho xem lại camera thì thấy Q và H vào nhà lấy tài sản. Ông H đến Công an Phường 3, Quận 10 trình báo việc bị mất các tài sản trên và số tiền mặt là 8.000.000 đồng. Vụ việc được Công an Phường 3, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 13/10/2018, khi đang lưu thông trên đường thì ông H bắt gặp Q và H. Ông H bắt giữ H cùng với xe môtô biển số 88S6-5487 giao cho Công an Phường 3, Quận 10 làm rõ sự việc, còn Q thì chạy thoát. Ngày 25/06/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã bắt truy nã Phạm Duy Q về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Phạm Duy Q khai nhận hành vi phạm tội như trên. Tuy nhiên, Q khai cùng H trộm cắp số tài sản gồm: 01 máy tính xách tay hiệu Macbook Retina 15 inch; 01 tivi hiệu Asanzo 32 inch; 01 box tivi bộ nhớ 2Gb; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Seiko; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Citizen; 04 chai rượu vang; 01 bếp hồng ngoại hiệu FUJIYAMA; 01 quạt phun sương; một số quần áo, mũ, giày cũ. Các tài sản khác gồm: 01 nhẫn vàng 18K; 01 Ipad mini, Q khai không được lấy, không nhìn thấy H lấy nên không biết H có trộm cắp các tài sản này hay không và cũng không được chia lại. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, H và Q đều khai không trộm cắp số tiền 8.000.000 đồng mà anh Hải trình báo bị mất.

Tài sản bị chiếm đoạt:

Tại Kết luận định giá tài sản số 487/KL-HDĐG ngày 27/6/2018 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Macbook Retina 15 inch có giá 21.000.000 đồng; 01 tivi hiệu Asanzo 32 inch có giá 2.500.000 đồng; 01 box tivi bộ nhớ 2Gb có giá 1.000.000 đồng; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Seiko có giá 8.000.000 đồng; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Citizen có giá 6.000.000 đồng; 01 nhẫn vàng 18K có giá 5.267.600 đồng; 01 Ipad mini 04 có giá 7.000.000 đồng, 01 quạt phun sương có giá 2.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 769/KL-HDĐG ngày 29/9/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: 04 chai rượu vang có giá 1.800.000 đồng; 01 bếp hồng ngoại hiệu FUJIYAMA có giá 1.860.000 đồng; 05 quần và 04 áo đã qua sử dụng, đã cũ nên không có giá trị.

Toàn bộ tài sản của ông H có cơ sở xác định bị chiếm đoạt có tổng giá trị 56.427.600 đồng; trong đó, số tài sản Q cùng H đã trộm cắp có tổng giá trị là 44.160.000 đồng, số tài H chiếm đoạt riêng là 12.267.600 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Phạm Duy Q về hành vi “Trộm cắp tài sản”, Tòa án nhân dân Quận 10 đã xét xử Phạm Duy Q 01 năm tù theo bản án 93/2020/HS-ST ngày 18/11/2020.

Đối với ông Huỳnh Văn L, do không biết việc Q và H thuê mình mở khóa nhà ông H nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 không xử lý anh Lành là có cơ sở.

Đối với Lê Trọng H được tạm tha về trong thời gian củng cố hồ sơ đã bỏ trốn, nên chưa thể làm rõ sự mâu thuẫn trong lời khai về số tài sản chiếm đoạt (01 Ipad mini, 01 nhẫn vàng 18K trọng lượng 02 chỉ) của Q và H. Ngày 17/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã khởi tố truy nã Lê Trọng H về hành vi “Trộm cắp tài sản”; đến ngày 19/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã bắt được Lê Trọng H.

Vật chứng vụ án:

Đối với 01 hộp đồng hồ vuông bằng giấy kích thước 11x11x11cm; 01 đồng hồ hiệu SEIKO (trị giá 8.000.000 đồng); 01 bếp hồng ngoại hiệu FUJIYAMA (trị giá 1.860.000 đồng); 05 quần jean; 04 áo thun (không đáng giá trị). Những tài sản trên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã tiến hành trả lại cho ông H. Như vậy số tài sản mà Q và H đã chiếm đoạt được, nhưng chưa thu hồi là 34.300.000 đồng; phía Phạm Duy Q đã tự nguyện bồi thường 22.350.000 đồng. Ngoài ra, H còn chiếm đoạt tài sản riêng là 12.267.600 đồng (chưa thu hồi lại được).

Đối với 01 xe môtô biển số 88S6-5487, số khung: RLHJF1804-8Y026191, số máy: JF18E-0103983, là xe Lê Trọng H sử dụng để trộm cắp tài sản. Kết quả giám định số khung, số máy không thay đổi. Xác minh biển số 88S6-5487 do bà Nguyễn Lan P đứng tên; số khung: RLHJF1804-8Y026191, số máy: JF18E- 0103983 do bà Nguyễn Thị T là chủ sở H, bà Thu cho biết đã bán xe cho người khác (không rõ lai lịch) và không có yêu cầu gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã tạm giữ cùng với 01 áo khoác màu xám đen, áo thun màu xanh, 01 túi xách da màu đen và 01 nón bảo hiểm màu xanh, tài sản H sử dụng khi trộm cắp tài sản.

Trách nhiệm dân sự trong vụ án:

Quá trình điều tra, ông Lê Minh H yêu cầu Q và H bồi thường số tài sản không thu hồi được với mức định giá là 44.700.000 đồng (thực tế là 46.567.600 đồng). Phía Phạm Duy Q đã tự nguyện bồi thường số tiền 22.350.000 đồng cho ông H (1/2 trị giá tài sản theo yêu cầu của ông H trong vụ án). Ông H đồng ý nhận và không yêu cầu gì nữa đối với bị cáo Q trong vụ án này; nhưng tiếp tục yêu cầu Lê Trọng H bồi thường số tiền 22.350.000 đồng.

Tại Cáo trạng truy tố số 70/CT-VKSQ10 ngày 27 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Lê Trọng H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Tái phạm) và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2, 5 Điều 173; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, xử phạt bị cáo: Lê Trọng H từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của đồng phạm khác trong vụ án, bị hại, nội dung ghi hình camera, biên bản đối chất, bản kết luận định giá tài sản, vật chứng, cùng các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Trọng H cùng đồng phạm thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có cơ sở xác định hiện tại trị giá là 44.160.000 đồng và chiếm đoạt riêng là 12.267.600 đồng, tổng cộng là: 56.427.600 đồng, nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Các hành vi của bị cáo và đồng phạm thực hiện trong vụ án mang tính chất liên tục; do vậy cần cộng tổng giá trị các tài sản lại mà phía bị cáo chiếm đoạt để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đồng phạm, nên không xem là phạm tội từ 02 lần trở lên đối với bị cáo và đồng phạm trong vụ án này.

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở H tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: ngày 02/02/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 03 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Bản án số 20/2015/HS-ST; bị cáo đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, nhưng chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội nghiêm trọng do cố ý, hành vi này là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); ngoài ra căn cứ vào khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân của bị cáo, sau khi thực hiện hành vi tội phạm đã bỏ trốn và bị truy nã, đến nay vẫn chưa khắc phục thiệt hại do hành vi của mình cùng đồng phạm gây ra); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

- Về trách nhiệm dân sự:

Toàn bộ thiệt hại về tài sản của ông Lê Minh H trong vụ án có cơ sở xác định trị giá là 56.427.600 đồng; trong đó, số tài sản Q cùng H đã chiếm đoạt có tổng giá trị là 44.160.000 đồng (không thu hồi lại được là 34.300.000 đồng), số tài H chiếm đoạt riêng là 12.267.600 đồng (không thu hồi lại được); ông Lê Minh H yêu cầu Q và H bồi thường số tài sản không thu hồi được là 44.700.000 đồng (thực tế là 46.567.600 đồng). Phía Phạm Duy Q đã tự nguyện bồi thường số tiền 22.350.000 đồng cho ông H (1/2 trị giá tài sản theo yêu cầu của ông H trong vụ án). Ông H đồng ý nhận và không yêu cầu gì nữa đối với bị cáo Q trong vụ án này và tiếp tục yêu cầu bị cáo Lê Trọng H bồi thường số tiền 22.350.000 đồng, xét thấy yêu cầu bị hại là tự nguyện và hợp lý. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Lê Trọng H bồi thường khoản tiền 22.350.000 đồng cho ông Lê Minh H.

Đối với khoản bồi thường thiệt hại của phía ông Phạm Duy Q (là bị cáo trong vụ án) nhiều hơn ½ giá trị tài sản mà Q cùng H thực hiện hành vi chiếm đoạt; nhưng xét thấy việc phía Q bồi thường khoản tiền 22.350.000 đồng cho ông Lê Minh H như đã nhận định trên là hoàn toàn tự nguyện và hiện phía Q chưa đặt ra yêu cầu gì. Do vậy, Hội đồng xét xử dành quyền yêu cầu khởi kiện của phía ông Phạm Duy Q cũng như cá nhân khác có liên quan đến khoản tiền đã bồi thường này trong vụ án dân sự khác khi xuất trình yêu cầu và chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 xe môtô (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: /, số loại: EXCEED, màu sơn: /, dung tích xi lanh: /, số khung: RLHJF1804-8Y026191, số máy: JF18E-0103983), là xe Lê Trọng H sử dụng để trộm cắp tài sản. Kết quả giám định số khung, số máy không thay đổi. Qác minh biển số 88S6-5487 do bà Nguyễn Lan P đứng tên; số khung: RLHJF1804- 8Y026191, số máy: JF18E-0103983 do bà Nguyễn Thị T là chủ sở H, bà Thu cho biết đã bán xe cho người khác (không rõ lai lịch) và không có yêu cầu gì; nên hiện chưa xác định chủ sở H hoặc người quản lý hợp pháp, trong khi chiếc xe trên lại là phương tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thông báo trong thời hạn nhất định, nếu không có chủ sở H hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận, thì căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 biển số 88S6-5487, lưu hành khộng hợp pháp; vậy căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01 áo khoác màu xám đen, 01 áo thun màu xanh, 01 túi xách da màu đen và 01 nón bảo hiểm màu xanh; là tài sản của H sử dụng khi trộm cắp tài sản; không đáng giá trị; vậy căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Trọng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2, 5 Điều 173; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Trọng H;

Xử phạt bị cáo Lê Trọng H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/8/2021.

Phạt bổ sung bị cáo H 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015; buộc: Bị cáo Lê Trọng H bồi thường số tiền 22.350.000 (hai mươi hai triệu ba trăm năm mươi ngàn) đồng cho ông Lê Minh H.

Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015; giao Chi cục thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo với thời hạn 12 tháng (đối với 01 xe môtô (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: /, số loại: EXCEED, màu sơn: /, dung tích xi lanh: /, số khung: RLHJF1804-8Y026191, số máy: JF18E-0103983), để chủ sở H hoặc người quản lý hợp pháp (nếu có) đến nhận, trong thời hạn trên kể từ ngày đăng báo mà không có chủ sở H hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy: 01 biển số 88S6-5487.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy: 01 áo khoác màu xám đen, 01 áo thun màu xanh, 01 túi xách da màu đen và 01 nón bảo hiểm màu xanh.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/12/2021 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 1.117.500 (mười một triệu một trăm mười bảy ngàn năm trăm) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 86/2021/HS-ST

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về