Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022, quyết định hoãn phiên tòa số 43/2022/HSST-QĐ ngày 15/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Trần Hoài V, sinh năm 1992, tại Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th và bà Trần Thị Thanh H1; vợ: Nguyễn Hiếu Th1 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18/4/2022; có mặt.

Bị hại: Ông Lê Văn H, sinh năm 1986; HKTT: Xóm 7, xã TM, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa; nơi ở: phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Thanh H1, sinh năm 1969; địa chỉ: phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 15/6/2021, Lê Trần Hoài V điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, màu đen-đỏ, biển số 61B1-165.xx đi từ nhà tại số 38, đường X, khu phố 3, phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương đến Cửa hàng bán phụ kiện điện thoại di động, địa chỉ tại phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương do anh Lê Văn H làm chủ để dán màn hình điện thoại. Đến nơi, V vào trong cửa hàng thì nhìn thấy trên kệ trưng bày có 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, màu trắng và 01 (một) máy tính bảng hiệu Huawei, màu đen (đã bị bể góc trái màn hình) nhưng không có người trông coi nên V nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại và máy tính bảng trên để đem bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định trên, V lén lút dùng tay phải lấy điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, màu trắng và máy tính bảng hiệu Huawei, màu đen (đã bị bể góc trái màn hình) rồi cất giấu vào bên trong áo khoác V đang mặc, sau đó V ra ngoài và điều khiển xe mô tô biển số 61B1-165.xx đi về nhà.

Đến khoảng 11 giờ ngày 20/6/2021, Lê Trần Hoài V điều khiển xe mô tô biển số 61B1-165.xx đi đến tiệm cầm đồ (hiện chưa xác định được tên và địa chỉ cụ thể) tại khu vực Ngã Tư S, phường TĐ, thị xã B, tỉnh Bình Dương để cầm 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, màu trắng với số tiền 1.000.000 (một triệu) và tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 10 giờ ngày 07/7/2021, khi V điều khiển xe mô tô biển số 61B1- 165.xx đi trên đường X, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương để đem máy tính bảng hiệu Huawei mà V đã lấy trộm để sửa chữa thì bị ông H phát hiện, giữ lại và giao cho Công an phường H xử lý. Cùng ngày, Công an phường H bàn giao Lê Trần Hoài V cùng hồ sơ và vật chứng gồm: 01 (một) máy tính bảng hiệu Huawei, model AGS2-L09, màu đen, dung lượng 32GB, Imei: 86956403804043 (đã bị bể góc trái màn hình); 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, màu đen-đỏ, biển số 61B1-165.xx, số khung JC43E6325797, số máy JC43E6325797 và 01 (một) USB có chứa đoạn camera ghi lại nội dung vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản kết luận định giá của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, màu trắng, dung lượng 64GB, sản xuất năm 2018 (không thu hồi được), trị giá 1.500.000 (một triệu, năm trăm nghìn) đồng và 01 (một) máy tính bảng hiệu Huawei, model AGS2-L09, màu đen, dung lượng 32GB, Imei: 86956403804043, trị giá 3.000.000 (ba triệu) đồng. Như vậy, tổng trị giá tài sản mà V đã chiếm đoạt là 4.500.000 (bốn triệu, năm trăm nghìn) đồng.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, màu trắng, dung lượng 64GB, sản xuất năm 2018 mà Lê Trần Hoài V đã lấy trộm của anh Lê Văn H, quá trình điều tra xác định do V đã cầm điện thoại nói trên tại tiệm cầm đồ gần khu vực Ngã Tư S, thị xã B, tỉnh Bình Dương nhưng V không nhớ rõ địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chưa thu hồi được. Riêng đối với 01 (một) máy tính bảng hiệu Huawei, model AGS2-L09, màu đen, dung lượng 32GB, Imei:

86956403804043, quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc quyền quản lý của ông H nên ngày 15/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một giao trả máy tính bảng nói trên cho ông H theo Quyết định xử lý vật chứng số 95/QĐ-CSĐT.

Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, màu đen-đỏ, biển số 61B1- 165.xx, số khung JC43E6325797, số máy JC43E6325797 do mẹ của Lê Trần Hoài V là bà Trần Thị Thanh H1, sinh năm 1969, đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương đứng tên trên Giấy chứng nhận Đăng ký xe mô tô. Quá trình điều tra xác định, bà H1 không biết việc V điều khiển xe mô tô làm phương tiện đi lấy trộm tài sản nên ngày 28/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một giao trả xe mô tô nói trên cho bà H1 theo Quyết định xử lý vật chứng số 115/QĐ-CSĐT ngày 27/10/2021. Hiện bà H1 không yêu cầu giải quyết gì thêm.

Đối với 01 (một) USB có chứa đoạn camera ghi lại nội dung vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đánh bút lục và chuyển kèm hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 70/CT-VKSTDM–HS ngày 18/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Trần Hoài V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị giải quyết.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi sai trái của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Với hành vi lén lút lấy trộm 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime và 01 (một) máy tính bảng hiệu Huawei có tổng trị giá là 4.500.000 (bốn triệu năm trăm nghìn đồng) của ông Lê Văn H mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội tội danh, điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự, trị an nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, hậu quả cũng như tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo mà áp dụng mức hình phạt tương xứng.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Chiếc máy tính bảng mà bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi, trả cho bị hại; riêng đối với giá trị chiếc điện thoại di động đã được bị cáo bồi thường cho bị hại. Ngoài ra, bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Nhận thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt. Do đó việc cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương. Vì thế, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát khi quyết định hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Trần Hoài V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Trần Hoài V 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án (11/5/2022).

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.

4/ Về xử lý vật chứng: Không có.

5/ Về án phí: Bị cáo Lê Trần Hoài V phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về