Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 85/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Kiên C, sinh năm 1983 tại Yên Bái; Nghề nghiệp: Tự do; Nơi đăng ký thường trú: phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Trình độ văn hoá (học vấn):

12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Đại H (Đã chết) và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1950; Bị cáo có vợ là chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1983, có 01 con sinh năm 2017. Tiền án: Ngày 28/6/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, xử phạt 03 tháng 25 ngày tù, chấp hành xong hình phạt ngày 09/5/2012. Qua xác minh tại Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa xác định C chưa thi hành hình phạt bổ sung với số tiền 4.800.000đ (Bốn triệu tám trăm nghìn đồng). Tiền sự: không.

Bị bắt ngày 26/3/2021 - Có mặt;

- Người bào chữa theo luật định cho các bị cáo Lê Kiên C: Luật sư Quan Quốc V – Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai - Có mặt;

Địa chỉ: Văn phòng Luật sư Toàn V, xã Phú B1, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Bị hại:

+ Bà Phạm Thị T1, sinh năm 1976 - Có mặt;

+ Ông Nguyễn Bá S, sinh năm 1972 - Có mặt;

Cùng địa chỉ: phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1983 - Có mặt;

Địa chỉ: phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Kiên C là đối tượng không nghề nghiệp, đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài cá nhân. Vào khoảng 02 giờ ngày 26/3/2021, C đi đến khu phố 3, phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, phát hiện nhà chị Phạm Thị T1 tại phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, không có người qua lại nên bị cáo C leo lên sân thượng đột nhập vào phòng ngủ tại lầu một lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu hồng và 01 điện thoại di động hiệu Oppo 11 Pro màu tím giấu vào túi quần. Sau đó, bị cáo C đi xuống tầng trệt đến khu vực quầy bán hàng mở ngăn kéo tủ gỗ lấy trộm số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng chẵn), rồi dùng chìa khóa mở ngăn tủ tiếp tục lấy trộm túi xách màu xám bên trong gồm có số tiền 690.000.000đ (Sáu trăm chín mươi triệu đồng chẵn), 01 giấy chứng minh nhân dân và 04 thẻ ATM mang tên Phạm Thị T1 thì bị chị T1 phát hiện truy hô, bị cáo C bỏ chạy trốn và cất giấu túi xách trên tại khu vực vườn rau của bà Nguyễn Thị T2 thuộc phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Khoảng 08 giờ cùng ngày, bị cáo C lấy số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu hồng đưa cho chị Nguyễn Thị T (là vợ của bị cáo C) nhưng chị T không biết đây là tài sản do bị cáo C trộm cắp có được.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F11 màu tím, Imel 1 số 864182042406117; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng, Imel số: 358686096032689; 04 thẻ ATM của ngân hàng Vietin Bank số 970415154775xxxx, của ngân hàng BIDV số 970418008483xxxx, của ngân hàng Sacombank số 970403927648xxxx, của ngân hàng TP Bank số 970423205056xxxx mang tên Phạm Thị T1; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị T1 số 25111xxxx do Công an tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 19/02/2014;

01 túi xách màu xám và số tiền 668.000.000đ (Sáu trăm sáu mươi tám triệu đồng) là tài sản của chị Phạm Thị T1 bị mất nên Cơ quan Cnh sát điều tra đã trả lại cho chị T1.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 2562/STC-HĐĐGTSTTHS ngày 07/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 7, màu hồng, số Imel: 358686096032689 trị giá 3.500.000 đồng; 01 điện thoại di động Oppo F11 Pro, màu tím đen, số Imel 1:864182042406117 trị giá 2.000.000 đồng. Tổng cộng là 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng chẳn).

Trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra chị Nguyễn Thị T (vợ của bị cáo C) đã tự nguyện bồi thường cho chị Phạm Thị T1 số tiền 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng chẵn) để khắc phục hậu quả, chị T1 đã làm đơn bãi nại và không yêu cầu gì thêm.

Tại Cáo trạng số 4134/CT-VKS-P2 ngày 13/7/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Kiên C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Kiên C đã khai nhận tội và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng. Bị cáo đã nhận thấy hành vi sai trái của mình đề nghị Tòa án xem xét giảm án. Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản bị bị cáo chiếm đoạt, không yêu cầu gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo.

Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, bị cáo có một tình tiết tăng nặng là tái phạm, tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, đã bồi thường khắc phục cho bị hại, tại phiên tòa hôm nay bị hại không có yêu cầu gì. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Lê Kiên C mức án từ 13 năm đến 15 năm tù.

Trình bày của Luật sư bào chữa cho bị cáo:

Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, bị cáo đã nhận tội như cáo trạng đã nêu, không có oan sai. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị cáo thành khẩn khai báo, phối hợp tốt với cơ quan điều tra để giải quyết vụ án nhanh, đề nghị áp dụng điểm p, s, t khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo, bị cáo đã được nhận đầy đủ Kết luận điều tra, Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, đảm bảo quyền được Luật sư bào chữa, tại phiên tòa, bị cáo cũng không khiếu nại thắc mắc gì.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 02 giờ, ngày 26/3/2021, tại nhà số 19/14, tổ 14, khu phố 3, phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Lê Kiên C đã thực hiện hành vi trèo lên sân thượng đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản gồm 01 điện thoại di động Iphone 7 màu hồng, 01 điện thoại di động Oppo 11 Pro màu tím và số tiền 692.000.000đ của chị Phạm Thị T1. Tổng giá trị tài sản C trộm cắp là 697.500.000đ.

Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo Lê Kiên C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác trái pháp luật. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhưng lười lao động nên đã nảy sinh ý định trộm cắp để phục vụ nhu cầu cá nhân, hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, cần có mức án nghiêm nhằm răn đe, cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát truy tố là đúng quy định pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra chị Nguyễn Thị T (vợ của bị cáo Lê Kiên C) đã tự nguyện bồi thường cho chị Phạm Thị T1 số tiền 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng) để khắc phục hậu quả, chị T1 đã làm đơn bãi nại và không yêu cầu gì thêm. Do đó, không đặt ra xem xét.

[4] Khi lượng hình phạt, cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo như:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường chị Phạm Thị T1 để khắc phục hậu quả, chị T1 đã làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Tại phiên tòa hôm nay, quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Tại phiên tòa hôm nay, ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có cơ sở, phù hợp nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm t, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Kiên C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Kiên C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm a, khoản 4, Điều 173 Bộ luật Hình sự, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Kiên C 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2021.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Bị cáo Lê Kiên C phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2021/HS-ST

Số hiệu:85/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về