TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY N
BẢN ÁN 85/2021/HS-PT NGÀY 24/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 63/2021/TLPT-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Trần Tấn Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HS-ST ngày 09 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây N.
Bị cáo kháng cáo:
Trần Tấn Đ, sinh ngày 1988, tại tỉnh Tây N. Nơi đăng ký NKTT: Ấp N B, xã Bàu N, huyện Dương Minh C, tỉnh Tây N; Nghề nghiệp: Không có; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Tấn A và bà Đặng Thị T; Vợ con chưa có; Tiền án: Tại Bản án số 66 ngày 12/6/2007 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại Bản án số 162 ngày 13/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xử phạt 05 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại Bản án số 54 ngày 22/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 04/11/2020, đến ngày 10/11/2020 bị tạm giam cho đến nay.(Có mặt).
Trong vụ án có 02 bị hại và 03 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị.(Tòa không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:
Bị cáo Đ không có nghề nghiệp và có 03 tiền án về tội cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản. Khoảng 17 giờ ngày 01-11-2020, bị cáo Đ đến tiệm điện thoại di động ThAh Trúc do chị Trần Thị Tường Vân thuộc ấp Thuận Tân, xã Truông Mít, huyện Dương Minh C, tỉnh Tây N làm chủ, để cầm cố điện thoại di động hiệu Iphone 5 của bị cáo Đ với số tiền 300.000 đồng. Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 02-11-2020, bị cáo Đ quay lại phát hiện tiệm ThAh Trúc không người trông giữ nên lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro. Đến khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, bị cáo Đ đem điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J4 đến tiệm điện thoại di động Viễn Thông @ thuộc ấp Thuận Hòa, xã Truông Mít, huyện Dương Minh C, bán cho Ah Nguyễn Hữu Thủy với số tiền 900.000 đồng. Sau đó, bị cáo Đ quay lại tiệm ThAh Trúc chuộc lại điện thoại di động hiệu Iphone 5 với số tiền 300.000 đồng, số tiền còn lại Đ tiêu xài hết. Khoảng 12 giờ ngày 03-11- 2020, bị cáo Đ tiếp tục đem điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro đến tiệm điện thoại di động Út Tuấn của Ah Lý ThAh Tuấn thuộc ấp 2, xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, bán Đ số tiền 1.300.000 đồng, tiêu xài hết.
Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 04-11-2020, sau khi quA sát tiệm điện thoại di động NQ TELECOM của Ah Nguyễn Quốc Hưng thuộc ấp 2, xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, không có người trông giữ, bị cáo Đ mAg theo 01 cây tua vít, 01 cây đèn pin, điều khiển xe môtô biển số 51Z7-8246 đến tiệm điện thoại di động của Ah Hưng. Bị cáo Đ dùng tua vít cạy mối hàn cửa tiệm, dùng tay luồn vào bên trong mở ổ khóa cửa có sẵn chìa khóa, rồi mở cửa đi vào bên trong. Bị cáo Đ dùng đèn pin soi sáng và lấy trộm 20 điện thoại di động các loại và nhiều phụ kiện điện thoại bỏ vào bịch nhựa và túi xách gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 1, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy V, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5C, 01 điện thoại di động hiệu Mibistar Z3, 01 điện thoại di động hiệu Sony XA-Ultra, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A10S, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A5 bị hỏng màn hình, 01 điện thoại di động hiệu Samsung E5 bị hỏng màn hình, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5G, 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia XL bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Huawei GR5 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung S4 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Y bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung J120 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S4 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia 520 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 3310 bị hỏng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1133 bị hỏng, 08 dây tai nghe hiệu Samsung, 08 kính cường lực dán màn hình hiệu Zenphone 5, 02 dây cấp điện thoại hiệu Iphone, 04 USB hiệu Micro dung lượng 2GB, 01 vỏ điện thoại hiệu Iphone 6S, 01 vỏ điện thoại hiệu Iphone 6S, 01 vỏ điện thoại hiệu Iphone 6S, 06 cụm chân sạc điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, 05 nút Home điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, 06 nút Home điện thoại hiệu Iphone 6S, 01 cụm chân sạc điện thoại hiệu Iphone 6S, 01 dây nguồn điện thoại hiệu Iphone 5S, 02 cụm camera trước điện thoại hiệu Iphone 6S, 03 cụm camera trước điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, 02 phản quAg màn hình hiệu Iphone 6G, 01 phản quAg màn hình hiệu Iphone 6S, 01 màn hình điện thoại hiệu Iphone 6G, 04 bộ gồm vỏ và pin điện thoại hiệu Iphone 6S, 03 bộ gồm vỏ và pin điện thoại hiệu Iphone 6S, 02 mặt kính điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, 01 vỏ điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, 01 vỏ điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, 01 main điện thoại hiệu Nokia Lumia XL, 01 màn hình điện thoại hiệu Nokia Lumia XL, 01 main điện thoại hiệu Samsung Galaxy E5, 01 vỏ điện thoại hiệu Iphone 6G. Bị cáo Đ đi ra ngoài và khóa cửa tiệm lại, cất 02 chìa khóa cửa tiệm vào bên trong túi mAg trên người và định điều khiển xe ra về thì bị Công An xã Bàu Đồn bắt quả tang cùng vật chứng.
Quá trình điều tra, bị cáo Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 24 ngày 06-11-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Dương Minh C kết luận: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J4 trị giá 1.100.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro trị giá 1.470.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 79 ngày 18-11-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Gò Dầu kết luận: 20 điện thoại di động các loại và nhiều phụ kiện điện thoại có tổng trị giá 17.090.000 đồng.
Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có bảng thống kê kèm theo.
Về trách nhiệm dân sự: Ah Hưng và chị Vân đã nhận lại tài sản bị mất trộm nên không yêu cầu bồi thường. Riêng Ah Thủy yêu cầu Đ bồi thường 900.000 đồng và Ah Tuấn yêu cầu Đ bồi thường 1.300.000 đồng.
Về kê biên tài sản: Do bị cáo Đ không có sở hữu tài sản nên Cơ quA điều tra không kê biên.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HS-ST ngày 09 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây N đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Tấn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Tấn Đ 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04-11-2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí, quyền kháng cáo.
Ngày 17 tháng 02 năm 2021, bị cáo Trần Tấn Đ có đơn kháng cáo, yêu cầu Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây N đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Xét các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quA tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đều hợp pháp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đ xác định trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quA tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm.
[2] Về tội dAh: Trần Tấn Đ có 03 tiền án về tội cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản. Vào các ngày 02, 04 tháng 11 năm 2020, trên địa bàn huyện Gò Dầu và huyện Dương Minh C, tỉnh Tây N, bị cáo Trần Tấn Đ đã lén lút lấy trộm tài sản của Ah Nguyễn Quốc Hưng và chị Trần Thị Tường Vân có tổng trị giá 19.660.000 đồng thì bị phát hiện.
Bản án Hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HS-ST ngày 09 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu đã xử bị cáo Trần Tấn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác Đ pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị A tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[4] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo xử phạt bị cáo Đ 06 (sáu) năm tù là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo gây ra.
[5] Bị cáo Đ kháng cáo nhưng không cung cấp Đ tình tiết mới nên không có cơ sở chấp nhận.
[6] Từ những phân tích nêu trên, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đ; Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[7] Về án phí: Bị cáo Đ kháng cáo không Đ chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Tấn Đ.
3. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HS-ST ngày 09 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây N.
3.1 Căn cứ điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 06 (sáu) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04-11-2020.
4. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Đ phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm hình sự.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
6. Trường hợp bản án, quyết định Đ thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự, thì người Đ thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án Đ thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2021/HS-PT
Số hiệu: | 85/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về