Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 85/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S (tên gọi khác Nguyễn Văn H); sinh năm: 1968 tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh); nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: không; nơi ở: (không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: (không biết chữ); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình H (chết) và bà: Nguyễn Thị T (chết); tiền án: Không; tiền sự: 01 (ngày 22/01/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 23 tháng theo quyết định số 04/QĐ-CSCNBB); nhân thân: Ngày 11/01/1989 bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 28/9/1989 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 1 quyết định đưa đi cưỡng bức lao động với thời hạn 12 tháng, ngày 08/8/1990 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa đi cưỡng bức lao động với thời hạn 12 tháng, ngày 16/01/2001 bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 36 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản”; bị bắt giữ ngày: 28/7/2019.

(Bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Bà Trần Thanh T – Sinh năm: 1963 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 471-473 đường L, Phường S, Quận 10, TP.HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Tăng Ngọc T – Sinh năm: 1968 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 183/180M đường B, Phường Q, Quận 4, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 50 phút ngày 28/7/2019, Nguyễn Văn S điều khiển xe môtô biển số 59F1- X chạy ngang qua nhà số 471 - 473 L, Phường 9, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì nhìn thấy bên trong nhà có 01 chiếc túi xách màu đỏ để trên bộ bàn ghế nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. S điều khiển xe vòng ngược lại, dựng xe dưới lòng đường rồi đi bộ vào bên trong nhà trên, S lén lút dùng tay phải cầm chiếc túi xách chạy ra và điều khiển xe chạy thoát. Ngay lúc này, chị Trần Thanh T đi từ trong nhà ra nhìn thấy S cầm chiếc túi xách của mình nên tri hô. Lúc này, được sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân điều khiển xe chạy theo S và bắt giữ S cùng vật chứng giải giao cho Công an Phường 9, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 túi xách màu đỏ (bên trong có 220 USD và 9.500.000 đồng). Tại Kết luận định giá số 856/KL-ĐGTS ngày 17/10/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự - Uỷ ban nhân dân Quận 10 kết luận: 220 USD và 01 chiếc túi xách có tổng giá trị là 5.266.600 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả lại tài sản cho chị Trần Thanh T, nhận lại tài sản chị T không có yêu cầu gì khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố, điều tra đối với Nguyễn Văn S về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn S khai nhận hành vi như trên.

Đối với 01 xe môtô hiệu Honda Wave RSX biển số 59F1-X; qua xác minh được người đứng giấy đăng ký xe là anh Nguyễn Văn Đ; ngày 18/4/2019, anh Đ bán xe cho hộ kinh doanh Thành Niên do ông Đặng Văn T làm đại diện; ngày 16/5/2019, hộ kinh doanh Thành Niên bán lại chiếc xe trên cho chị Tăng Ngọc T (là chị vợ của Nguyễn Văn S); ngày 28/7/2019, S mượn xe của chị T và sau đó bị bắt như trên. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 trả lại xe cho chị T.

Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKSQ.10 ngày 08 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Nguyễn Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại, nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn S: từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Đề nghị xử lý trách nhiệm và các biện pháp tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng, bản kết luận định giá trài sản, biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại có tổng giá trị là: 5.266.600 đồng (220 USD và 01 chiếc túi xách) + 9.500.000 đồng = 14.766.600 đồng; nên bị cáo Nguyễn Văn S bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; ngoài ra bị cáo còn có đặc điểm nhân thân không tốt: ngày 22/01/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 23 tháng theo quyết định số 04/QĐ-CSCNBB (chưa được xóa tiền sự), ngày 11/01/1989 bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 28/9/1989 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 1 quyết định đưa đi cưỡng bức lao động với thời hạn 12 tháng, ngày 08/8/1990 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa đi cưỡng bức lao động với thời hạn 12 tháng, ngày 16/01/2001 bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 36 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản” (đã xóa tiền án, tiền sự). Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải), phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; do vậy Hội đồng xét xử tương ứng áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do đã được xóa án tích.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi, giao trả cho bị hại; do vậy không có gì để Tòa giải quyết.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Văn S;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo S.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc:

- Bị cáo S chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2019/HS-ST

Số hiệu:85/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về