TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 83/2023/HS-ST NGÀY 25/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 93/2023/TLST- HS, ngày 30/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2023/QĐXXST- HS ngày 08/12/2023, đối với bị cáo:
Đỗ Văn T, sinh năm 2004, tại Bình Thuận. Nơi cư trú: Tổ 8, khu phố 5, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T, sinh năm 1976 và bà Đỗ Thị Ngọc H, sinh năm 1980. Gia đình có 03 chị em, Đỗ Văn T là con thứ hai trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo bị bắt ngày 15/8/2023, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đức Linh. Có mặt.
- Bị hại:
+ Bà Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1976; nơi cư trú: Số nhà 185, đường Ngô Gia Tự, khu phố 5, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
+ Ông Trần Ph, sinh năm 1972; nơi cư trú: Số nhà 163, đường Nguyễn An Ninh, khu phố 4, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
+ Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1981; nơi cư trú: Số nhà 34, đường Hàm Nghi, khu phố 8, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
+ Ông Huỳnh Quốc V, sinh năm 1980; nơi cư trú: Số nhà 82, đường Tô Ngọc Vân, tổ 4, khu phố 7, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1973; nơi cư trú: Số nhà 3, đường số 30, tổ 6, thôn 3, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.
+ Bà Lê Thị Tuyết Nh, sinh năm 1978; nơi cư trú: Đường số 43, tổ 6, thôn 2, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Điệp Thị Ngọc Y, sinh năm 1978; nơi cư trú: Đường số 24, tổ 8, thôn 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
+ Ông Hồ Thanh T, sinh năm 1979; nơi cư trú: Đường số 24, tổ 8, thôn 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
+ Bà Dương Thị Hồng D, sinh năm 2008; nơi cư trú: Số nhà 14/3, đường số 46, thôn 4, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
+ Bà Lương Thị B, sinh năm 1984; nơi cư trú: Số nhà 14/3, đường số 46, thôn 4, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền tiêu xài, vào rạng sáng ngày 13/8/2023, Đỗ Văn T, sinh năm 2004, trú tại khu phố 5, thị trấn V, huyện Đ cùng với Dương Thị Hồng D, sinh ngày 01/10/2008, trú tại thôn 4, xã N, huyện Đ đi bộ về nhà. Khi T và D đi ngang qua nhà của bà Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1976, trú tại số 185, đường Ngô Gia Tự, khu phố 5, thị trấn V, huyện Đ phát hiện trước sân nhà có 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, không có biển số. Tiếp đó, D đứng ngoài, T lẻn đi vào sân trộm xe dắt mô tô ra đường, nổ máy điều khiển xe chở D đi về hướng xã M. Sau khi trộm xong, T và D mang đến bán cho bà Điệp Thị Ngọc Y, sinh năm 1978, trú tại đường 26, thôn 2, xã M, huyện Đ chủ tiệm thu mua phế liệu với số tiền là 700.000 đồng. Sau khi mua xe môt tô trên, bà Y đưa cho chồng là Hồ Thanh T, sinh năm 1979 trú tại thôn 2, xã M để tháo từng bộ phận ra bán phế liệu. Ngày 14/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh đã thu giữ được các bộ phận của xe mô tô trên gồm 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMG310269912, 01 bộ số khung xe mô tô có số khung VTPCG003YVN061113. Qua tra cứu, xe mô tô không có biển số mà Đỗ Văn T trộm có biển số kiêm soát là 86K1-X.
Tại kết luận định giá tài sản số 54 ngày 17/8/2023 của Hội đồng định giá huyện Đức Linh, 01 xe Dream, màu nâu biển số 86K1-X có giá trị 3.200.000 đồng.
Quá trình điều tra, Đỗ Văn T khai nhận đã thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đức Linh. Cụ thể như sau:
- Vụ thứ nhất: Vào ngày 11/8/2023, Đỗ Văn T cùng với Dương Thị Hồng D trộm 01 xe mô tô hiệu Wave, màu xám, biển số 86K1-X của ông Trần Ph, sinh năm 1972 trú tại KP4, TT. V để trên cầu Kênh thuỷ lợi rồi đem bán cho bà Điệp Thị Ngọc Y với số tiền là 650.000 đồng. Sau khi mua xe máy trên, bà Y đưa cho chồng là Hồ Thanh T, sinh năm 1979 trú tại thôn 2, xã M để tháo từng bộ phận ra bán phế liệu. Ngày 14/8/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Linh đã thu giữ được các bộ phận của xe mô tô trên gồm 01 (một) bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMH10034447, 01 (một) bộ khung xe mô tô có số khung VFCPCH0A2YF014754.
Tại kết luận định giá tài sản số 60 ngày 30/8/2023 của Hội đồng định giá huyện Đức Linh, 01 xe Wave màu xám biển số 86K1-X có giá trị 3.500.000 đồng.
- Vụ thứ hai: Vào ngày 07/8/2023, Đỗ Văn T cùng với Dương Thị Hồng D trộm 01 xe mô tô hiệu ĐH, màu đỏ, biển số 67F1-X của ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1981 trú tại KP8, TT. V để trên cầu Kênh thuỷ lợi rồi đem bán cho bà Điệp Thị Ngọc Y với số tiền là 650.000 đồng. Xe mô tô biển số 67F1-X đã được thu giữ.
Tại kết luận định giá tài sản số 61 ngày 30/8/2023 của Hội đồng định giá huyện Đức Linh, 01 xe ĐH, màu đỏ đen, biển số 67F1-X có giá trị 4.000.000 đồng.
- Vụ thứ ba: Vào ngày 10/8/2023, Đỗ Văn T cùng với Dương Thị Hồng D trộm 01 xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 86H4-X của ông Huỳnh Quốc V, sinh năm 1980 trú tại KP7, TT. V để trên bờ đê khu vực ruộng lô C thuộc thị trấn V rồi đem bán cho bà Điệp Thị Ngọc Y với số tiền là 700.000 đồng. Xe mô tô biển số 86H4-X đã được thu giữ.
Tại kết luận định giá tài sản số 62 ngày 30/8/2023 của Hội đồng định giá huyện Đức Linh, 01 xe Wave màu đỏ, biển số 86H4-X có giá trị 3.700.000 đồng.
- Vụ thứ tư: Vào tối ngày 07/8/2023, Đỗ Văn T cùng với Dương Thị Hồng D trộm 01 xe mô tô hiệu Dream, màu đỏ đen, biển số 86K8-X của ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1978, trú tại thôn 3, xã N rồi đem bán cho bà Điệp Thị Ngọc Y với số tiền là 600.000 đồng. Xe mô tô biển số 86K8-X đã được thu giữ.
Tại kết luận định giá tài sản số 63 ngày 30/8/2023 của Hội đồng định giá huyện Đức Linh, 01 xe Dream màu đỏ đen, biển số 86K8-X có giá trị 4.100.000 đồng.
- Vụ thứ năm: Vào tối ngày 08/7/2023, Đỗ Văn T cùng với Dương Thị Hồng D trộm 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ đen bạc, biển số 86B8-X của bà Lê Thị Tuyết Nh, sinh năm 1978 trú tại thôn 2, xã N để trên trước sân nhà rồi đem bán cho bà Điệp Thị Ngọc Y với số tiền là 700.000 đồng. Xe mô tô trên đã được thu giữ.
Tại kết luận định giá tài sản số 64, ngày 30/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đức Linh: 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ đen bạc, biển số 86B8- X có giá trị 7.000.000 đồng.
Như vậy, Đỗ Văn T thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 25.500.000 đồng.
Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với Đỗ Văn T, Dương Thị Hồng D chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Dương Thị Hồng D là có cơ sở.
Điệp Thị Ngọc Y, Hồ Thanh T khi mua tài sản không biết đó là tài sản do Đỗ Văn T phạm tội mà có.
Đối với đối tượng tên Nguyễn Duy L, căn cứ vào lời khai của cháu Dương Thị Hồng D, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Linh chưa thể làm việc được với L. Mặt khác, Đỗ Văn T khai nhận chỉ trộm cắp 06 xe mô tô cùng với Dương Thị Hồng D. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Linh sẽ tiếp tục xác minh làm rõ sau.
Vật chứng vụ án: 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMG310269912, 01 bộ số khung xe mô tô có số khung VTPCG003YVN061113 của bà Nguyễn Thị Kim Y; 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMH10034447, 01 bộ khung xe mô tô có số khung VFCPCH0A2YF014754 của ông Trần Ph; 01 xe mô tô hiệu ĐH, màu đỏ, biển số 67F1-X của ông Nguyễn Minh T; 01 xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 86H4- X của ông Huỳnh Quốc V; 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ đen, biển số 86B8-X của bà Lê Thị Tuyết Nh; 01 xe mô tô hiệu Dream, màu đỏ đen, biển số 86K8-X của ông Nguyễn Ngọc T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh đã trả lại cho các chủ sở hữu.
Về phần dân sự: Các chủ sở hữu xe mô tô bị Đỗ Văn T trộm cắp và bà Điệp Thị Ngọc Y không yêu cầu bồi thường.
Tại Cáo trạng số 91/CT-VKS-HS ngày 20/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh truy tố Đỗ Văn Toàn về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng.
Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đỗ Văn T 06 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và cả 06 lần đều cấu thành tội phạm. Ngoài ra, Đỗ Văn T xúi giục cháu Dương Thị Hồng D phạm tội khi dưới 18 tuổi. Do đó Đỗ Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng Phạm tội 02 lần trở lên, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Từ đó, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn T mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Kim Y, ông Trần Ph, ông Nguyễn Minh T, ông Huỳnh Quốc V, bà Lê Thị Tuyết Nh, ông Nguyễn Ngọc T và bà Điệp Thị Ngọc Y không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
Về vật chứng: Qúa trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh thu giữ 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMG310269912, 01 bộ số khung xe mô tô có số khung VTPCG003YVN061113 của bà Nguyễn Thị Kim Y; 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMH10034447, 01 bộ khung xe mô tô có số khung VFCPCH0A2YF014754 của ông Trần Ph; 01 xe mô tô hiệu ĐH, màu đỏ, biển số 67F1-X của ông Nguyễn Minh T; 01 xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 86H4- X của ông Huỳnh Quốc V; 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ đen, biển số 86B8-X của bà Lê Thị Tuyết Nh; 01 xe mô tô hiệu Dream, màu đỏ đen, biển số 86K8-X của ông Nguyễn Ngọc T; Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu là phù hợp.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu; mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra không có tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Trong khoảng thời gian từ ngày 08/7/2023 đến ngày 13/8/2023, Đỗ Văn T 06 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đức Linh. Ngày 08/7/2023, Đỗ Văn T trộm của Lê Thị Tuyết Nh tại thôn 2, xã N 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ đen bạc, biển số 86B8-X trị giá tài sản chiếm đoạt là 7.000.000 đồng. Ngày 07/8/2023, Đỗ Văn T trộm của Nguyễn Ngọc T tại thôn 3, xã N 01 xe Dream, màu đỏ đen, biển số 86K8-X trị giá tài sản chiếm đoạt là 4.100.000 đồng. Ngày 10/8/2023, Đỗ Văn T trộm của Huỳnh Quốc V tại bờ đê khu vực ruộng lô C thuộc thị trấn V 01 xe Wave màu đỏ, biển số 86H4-X trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.700.000 đồng. Ngày 07/8/2023, Đỗ Văn T trộm của Nguyễn Minh T tại khu vực cánh đồng lúa thuộc khu phố 8, thị trấn V 01 xe ĐH, màu đỏ đen, biển số 67F1-X trị giá tài sản chiếm đoạt là 4.000.000 đồng. Ngày 11/8/2023, Đỗ Văn T trộm của ông Trần Ph tại khu vực cánh đồng lúa thuộc khu phố 2, thị trấn V 01 xe Wave màu xám, biển số 86K1-X trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.500.000 đồng. Ngày 13/8/2023, Đỗ Văn T trộm của bà Nguyễn Thị Kim Y tại khu phố 5, thị trấn V, huyện Đ 01 xe Dream, màu nâu, biển số 86K1-X trị giá tài sản chiếm đoạt là 3.000.000 đồng.
Đỗ Văn T thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 25.500.000 đồng.
Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với Đỗ Văn T, Dương Thị Hồng D chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Dương Thị Hồng D là có cơ sở.
Điệp Thị Ngọc Y, Hồ Thanh T khi mua tài sản không biết đó là tài sản do Đỗ Văn T phạm tội mà có, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh không truy cứu trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật.
Đối với đối tượng tên Nguyễn Duy L, căn cứ vào lời khai của cháu Dương Thị Hồng D, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Linh chưa thể làm việc được với L. Mặt khác, Đỗ Văn T khai nhận chỉ trộm cắp 06 xe mô tô cùng với Dương Thị Hồng D. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Linh sẽ tiếp tục xác minh làm rõ sau.
Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[2] Tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong việc quản lý tài sản của người dân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật mà vẫn cố ý thực hiện, đã liên tiếp thực hiện nhiều hành vi phạm tội thể hiện sự xem thường pháp luật. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đỗ Văn T 06 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và cả 06 lần đều cấu thành tội phạm. Ngoài ra, Đỗ Văn T xúi giục cháu Dương Thị Hồng D phạm tội khi dưới 18 tuổi. Do đó Đỗ Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng Phạm tội 02 lần trở lên, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại điểm g, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Kim Y, ông Trần Ph, ông Nguyễn Minh T, ông Huỳnh Quốc V, bà Lê Thị Tuyết Nh, ông Nguyễn Ngọc T và bà Điệp Thị Ngọc Y không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về vật chứng: Qúa trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh thu giữ 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMG310269912, 01 bộ số khung xe mô tô có số khung VTPCG003YVN061113 của bà Nguyễn Thị Kim Y; 01 bộ máy xe mô tô có số máy 1P50FMH10034447, 01 bộ khung xe mô tô có số khung VFCPCH0A2YF014754 của ông Trần Ph; 01 xe mô tô hiệu ĐH, màu đỏ, biển số 67F1-X của ông Nguyễn Minh T; 01 xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 86H4- X của ông Huỳnh Quốc V; 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ đen, biển số 86B8-X của bà Lê Thị Tuyết Nh; 01 xe mô tô hiệu Dream, màu đỏ đen, biển số 86K8-X của ông Nguyễn Ngọc T; Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu là phù hợp, đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt Đỗ Văn T 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (Ngày 15/8/2023).
2. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (25/12/2023); báo cho bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án, để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2023/HS-ST
Số hiệu: | 83/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về