TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 83/2022/HS-ST NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:
1/ Họ tên: Chu Tuấn M; Sinh năm 1996 tại Bạc Liêu tên gọi khác: M Lọ; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm 4, Phường X, thị xã G R, tỉnh BL; Chỗ ở hiện nay: không nơi cư trú rõ ràng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: Chu Thanh T1, sinh năm 1970; Con bà: Lưu Thị H, sinh năm 1970; Anh chị em ruột: không có;Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã G, tỉnh Bạc Liêu từ ngày 26/8/2022 đến nay.
2/ Họ tên: Lê Hoàng N; Sinh năm 1994, tại Bạc Liêu; Tên gọi khác: không, giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khóm 3, phường L T, thị xã G R, tỉnh B L; Chỗ ở hiện nay: không có nơi cư trú ổn định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 01/12; Con ông: Lê Văn T2, sinh năm 1962; Con bà : Nguyễn Thị H1, sinh năm 1968; Anh chị em ruột có 05 người, lớn nhất là bị can, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án: 01 lần, bị TAND tỉnh Bạc Liêu xét xử tại bản án hình sự phúc thẩm số 12/2019/HS-PT ngày 22/01/2019, phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2021, chưa được xóa án tích; Tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã G, tỉnh Bạc Liêu từ ngày 28/8/2022 đến nay.
3/ Họ và tên: Hữu T, sinh năm 1993 tại Bạc Liêu; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm 4, Phường H P, thị xã GR, tỉnh B L; Chỗ ở hiện nay: Khóm 1, Phường H P, thị xã G R, tỉnh B L; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Khmer; Trình độ học vấn: không biết chữ; Tôn giáo: Không; Quốc 1 tịch: Việt Nam; Con ông: Hữu C sinh năm 1975; Con bà: Thạch Thị P, sinh năm 1974; Anh chị em ruột có 5 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã G, tỉnh Bạc Liêu trong vụ án khác.
- Bị hại: Bà Phạm Thanh K sinh năm 1985 Địa chỉ: ấp 18, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu ( Bị cáo có mặt, bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ ngày 25/8/2022, bị cáo Lê Hoàng N điều khiển xe mô tô loại Dream, màu nâu, biển kiểm soát 52N2-G7 chở bị cáo Chu Tuấn M và bị cáo Hữu T từ khóm 2, Phường 1, đến xã Phong Tân, thị xã G chơi, khi đến nhà của chị Phạm Thanh K thuộc khu vực ấp 18, xã Phong Tân, M nhìn thấy nhà của chị Phạm Thanh K đóng cửa nên bị cáo M rủ N, T đột nhập vào nhà lấy trộm tài sản, các bị cáo N và T đồng ý. Bị cáo N điều khiển xe đậu trước nhà chị K, bị cáo M lấy 01 cây vít trong cóp xe cầm theo, bị cáo N nhặt một cây búa ở gần mé lộ đưa cho bị cáo T cầm, thấy cửa trước nhà chị K bị khóa nên tất cả đi vòng ra cửa nhà sau, bị cáo M lấy cây vít cạy cửa nhưng không mở được, bị cáo N dùng tay đẩy mạnh cửa nhà sau mở ra rồi tất cả đi vào nhà, M lấy hai mô tơ bơm nước hiệu Super, loại 1,5 HP bỏ vào hai cái thùng nhựa loại đựng nước sơn có quai xách. Bị cáo M tiếp tục lên nhà trước lấy một tivi nhãn hiệu JVC màu đen, 32 inch màn hình phẳng để dưới nền nhà và lấy một bó hoa được xếp bằng tờ tiền cầm trên tay. Các bị cáo N và T vào trong phòng ngủ tìm tài sản để lấy trộm, bị cáo N lấy trộm 01 (một) chai nước hoa, nhãn hiệu Chanel Coco; 01 (một) chai nước hoa, không rõ nhãn hiệu; một cốc sạc điện thoại nhãn hiệu Samsung; một cục sạc pin dự phòng, nhãn hiệu AVA; Một Micro không dây, nhãn hiệu Arirang; tiếp đó N lấy một túi xách quai chéo màu đen rồi bỏ tất cả tài sản N đã lấy trộm vào trong túi xách; thấy vậy bị cáo M lấy bó hoa xếp bằng tiền bỏ vào trong túi xách. Sau đó, các bị cáo N, M, T dùng búa để cạy phá két sắt nhưng không được. Lúc này, bị cáo M đi lấy hai cái thùng có đựng hai mô tơ đem ra ngoài treo ở ba ga xe rồi đi bộ về trước, còn bị cáo N lấy cái mềm bằng vải màu đỏ - vàng quấn che két sắt lại, bị cáo T lấy túi xách đeo trên vai rồi cùng N khiêng két sắt ra xe, còn một tivi thì để lại do không chở hết.
Tiếp theo, bị cáo N điều khiển xe mô tô chở T cùng với tài sản lấy trộm được đi về hướng phường 1, thị xã G, khi đi đến khu vực ấp 5, xã Phong Tân, khi đó các bị cáo N và T ném bỏ hai cái thùng loại đựng nước sơn, còn lại 02 cái mô tơ N để trên ba ga xe, tiếp tục đi đến khu vực Phường 1 thì các bị cáo N, T ném bỏ két sắt có bọc cái mền bên ngoài và mang 02 cái mô tơ đến khóm 3, phường Láng Tròn bán cho bà Diệp Thị L được số tiền 900.000 đồng; Trên đường đi bán mô tơ về thì, bị cáo N đã ném bỏ cái túi xách, bên trong túi xách vẫn còn hai chai nước hoa, một cóc sạc điện thoại, một cục sạc pin dự phòng, một Micro không dây.
Sau khi bán mô tơ xong, bị cáo N chia tiền cho các bị cáo M và T mỗi người được 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Sau đó, bị cáo N kiểm tra bó hoa được xếp bằng tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng, tổng cộng được 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), bị cáo N đã chi xài cá nhân hết.
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 49/KL-HĐĐGTS ngày 29/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã G kết luận:
+ 01 (một) cái tủ sắt nhãn hiệu FORES TIER FRERES SOMME, mua năm 2002. Hội đồng định giá căn cứ vào hiện trạng thực tế của tài sản để định giá. Tại thời điểm yêu cầu định giá có giá là 200.000 đồng;
+ 02 (hai) cái mô tơ nhãn hiệu Super, loại 1,5HP, mua năm 2019. Tại thời điểm yêu cầu định giá có giá là 2.100.000 đồng/chiếc. Nhưng do thời gian sử dụng tài sản bị hao mòn nên giá trị còn lại là 54%. T tiền: 02 mô tơ Super 1,5HP x 2.100.00 x 54% = 2.268.000 đồng;
+ 01 cái mềm bằng vải màu đỏ - vàng, 01 (một) túi xách quai chéo bằng vải màu đen, 02 (hai) cái thùng loại đựng nước sơn. Không định giá được vì không đủ cơ sở.
Tổng cộng T tiền: 2.468.000 đồng - Tại bản kết luận định giá tài sản số 65/KL-HĐĐGTS ngày 28/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã G, kết luận: 01 (Một) cốc sạc màu trắng, nhãn hiệu Samsung; 02 (hai) chai nước hoa, 01 (Một) Micro không dây, nhãn hiệu Arirang, 01 (Một) cục sạc pin dự phòng, nhãn hiệu AVA. Không định giá được vì không đủ thông tin về tài sản.
Trong giai đoạn điều tra, các bị cáo đã T khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKS-HS ngày 28/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã G truy tố các bị cáo Chu Tuấn M, Lê Hoàng N và Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố các bị cáo Chu Tuấn M, Lê Hoàng N và Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Chu Tuấn M từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hoàng N từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hữu T từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Về trách nhiệm dân sự: Bà Phạm Thanh K không yêu cầu bồi thường nên không đề cập xử lý .
- Về vật chứng, đề nghị: Đối với 01 (một) cái tủ sắt nhãn hiệu FORES TIER FRERES SOMME; 02 (hai) cái mô tơ nhãn hiệu Super, loại 1,5HP; 01 cái mềm bằng vải màu đỏ - vàng; 01 (một) đôi dép quai kẹp màu trắng; 01 (một) cây kìm; 01 (một) cây đục sắt; 01 (một) mãnh gỗ kích thước 30x5,5 cm; 01 (một) mãnh gỗ kích thước 28x2,5 cm; 01 (một) mãnh gỗ kích thước 30x3 cm, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chủ sở hữu không đặt ra xem xét.
Đối với 02 (hai) thùng nhựa màu trắng loại đựng nước sơn; 01 (một) cốc sạc màu trắng, nhãn hiệu Samsung; 01 (một) chai nước hoa, có vỏ chai bằng thủy tinh, nhãn hiệu Chanel Coco; 01 (một) chai nước hoa không rõ nhãn hiệu; 01 (một) Micro không dây nhãn hiệu Arirang; 01 (một) cục sạc pin dự phòng, nhãn hiệu AVA, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ được nên không đặt ra xem xét.
Đối với 01 (một) xe mô tô loại Dream, biển kiểm soát 52N2-G7 đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước; 01 (Một) cây búa và 01 (một) cây tua vít đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, khai báo T khẩn và xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo và lời khai của người bị hại trong hồ sơ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của các cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có căn cứ kết luận như sau: Vào khoảng 13 giờ ngày 25/8/2022, tại ấp 18, xã Phong Tân, thị xã G, bị cáo Chu Tuấn M rủ các bị cáo Lê Hoàng N, Hữu T đột nhập vào nhà của chị Phạm Thanh K trộm cắp tài sản, gồm: 01 (một) cái tủ sắt nhãn hiệu FORES TIER FRERES SOMME trị giá 200.000 đồng; 02 (hai) cái mô tơ nhãn hiệu Super, loại 1,5HP trị giá 2.268.000 đồng; một bó hoa được xếp bằng tờ tiền 2.000 đồng, trị giá 300.000 đồng. Tổng cộng số tiền 2.768.000 đồng. Tính chất của vụ án là phạm tội giản đơn, không có bàn bạc hay phân công vay trò cụ thể. Các bị cáo M, N và T đã cùng nhau thực hiện việc trộm cắp tài sản của bị hại với mục đích bán lấy tiền chia nhau xài. Vì vậy, hành vi của các bị cáo đã bị khởi tố vụ án hình sự và khởi tố các bị cáo là phù hợp. Bên cạnh đó, quá trình điều tra và truy tố, Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật hình sự.
Xét thấy: Các bị cáo đều là những người đã trưởng T và khỏe mạnh, đang trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động để tạo ra đồng tiền chân chính chăm lo cho cuộc sống bản thân và gia đình nhưng vì bản tính tham lam, lười biếng lao động, thích hưởng thụ vật chất của người khác mà bị cáo đã bất chấp dư luận cũng như pháp luật. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc xâm phạm đến tài sản của người khác là trái pháp luật. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu T tội phạm “trộm cắp tài sản” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã G đã truy tố bị cáo. Vì vậy, cần có một hình phạt tương xứng đối với các bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội đẩy lùi tình trạng trộm cắp tài sản đang diễn ra phức tạp trên địa bàn hiện nay.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có một mức án phù hợp với hành vi của từng bị cáo: Bị can Lê Hoàng N bị Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử tại bản án hình sự phúc thẩm số 12/2019/HS-PT ngày 22/01/2019, phạt 04 năm tù, về tội “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong ngày 27/10/2021, đến nay chưa được xoá án tích, nên lần phạm tội này bị can phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự . Bị cáo Hữu T và Chu Tuấn M không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Chu Tuấn M, Lê Hoàng N, Hữu T T khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng đối với Chu Tuấn M phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít N trọng theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vào ngày 20/07/2010, bị cáo Hữu T bị Tòa án nhân dân thị xã G xử 01 năm tù về tội “cướp giật tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt ngày 19/02/2011, đến nay đã xóa án tích, do vậy không áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít N trọng cho bị cáo T.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Bà Phạm Thanh K đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Bà diệp thị lan đã nhận lại số tiền 900.000 đồng tiền mua 02 chiếc môtơ và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.
[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) cái tủ sắt nhãn hiệu FORES TIER FRERES SOMME; 02 (hai) cái mô tơ nhãn hiệu Super, loại 1,5HP; 01 cái mềm bằng vải màu đỏ - vàng; 01 (một) đôi dép quai kẹp màu trắng; 01 (một) cây kìm; 01 (một) cây đục sắt; 01 (một) mãnh gỗ kích thước 30x5,5 cm; 01 (một) mãnh gỗ kích thước 28x2,5 cm; 01 (một) mãnh gỗ kích thước 30x3 cm, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chủ sở hữu.
Đối với 02 (hai) thùng nhựa màu trắng loại đựng nước sơn; 01 (một) cốc sạc màu trắng, nhãn hiệu Samsung; 01 (một) chai nước hoa, có vỏ chai bằng thủy tinh, nhãn hiệu Chanel Coco; 01 (một) chai nước hoa không rõ nhãn hiệu; 01 (một) Micro không dây nhãn hiệu Arirang; 01 (một) cục sạc pin dự phòng, nhãn hiệu AVA, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ được.
Đối với 01 (một) xe mô tô loại Dream, biển kiểm soát 52N2-G7 do các bị cáo sử dụng làm phương tiệm phục vụ cho việc trộm cắp tài sản, trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã tìm kiếm chủ sỡ hữu nhưng không tìm được nên tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà Nước, vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự thị xã G đang quản lý.
Đối với 01 (Một) cây búa và 01 (một) cây tua vít không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy, vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự thị xã G đang quản lý.
Đối với đĩa CD ghi hình ba bị cáo cùng phương tiện liên quan đến vụ án trộm cắp tài sản nhà bà K được tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.
[5] Đối với bà Diệp Thị Lan là người mua 02 mô tơ từ Lê Hoàng N bán, do N không nói và bà Lan cũng không biết tài sản do phạm tội mà có, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Lan là có căn cứ.
[6] Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Qua ý kiến đề xuất xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G về hình phạt đối với các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ pháp luật nên được ghi nhận.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
1- Căn cứ điểm khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điểm i,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Chu Tuấn M -Căn cứ điểm khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Hoàng N.
- Căn cứ điểm khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hữu T Tuyên bố: Các bị cáo Chu Tuấn M, Lê Hoàng N và Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
+Xử phạt bị cáo Chu Tuấn M 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/08/2022
+Xử phạt bị cáo Lê Hoàng N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/08/2022
+Xử phạt bị cáo Hữu T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt phải chấp hành án.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.
[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu hóa giá sung công quỹ nhà nước 01 (một) xe mô tô loại Dream, biển kiểm soát 52N2-G7; Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) cây búa và 01 (một) cây tua vít được bảo quản theo quy định pháp luật. Hiện Chi cục thi hành án dân sự thị xã G đang quản lý.
Tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án 01 đĩa CD ghi hình ba bị cáo cùng phương tiện liên quan đến vụ án trộm cắp tài sản nhà bà K
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc các bị cáo Chu Tuấn M, Lê Hoàng N và Hữu T mỗi người phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã G Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Phía bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2022/HS-ST
Số hiệu: | 83/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về