Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 83/2022/HS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 (Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 1233/TB-TA ngày 29/6/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2021/HSST-QĐ ngày 15/7/2021, Thông báo mở lại phiên tòa số 1452/TB-TA ngày 13/8/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 91/2021/HSST-QĐ ngày 09/9/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 111/2021/HSST-QĐ ngày 27/9/2021, Thông báo mở lại phiên tòa số 28/TB-TA ngày 15/10/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 157/2021/HSST-QĐ ngày 12/11/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 172/2021/HSST-QĐ ngày 10/12/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2022/HSST-QĐ ngày 10/01/2022, Thông báo mở lại phiên tòa số 118/TB-TA ngày 10/02/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/HSST-QĐ ngày 09/3/2022, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 675/TB-TA ngày 06/4/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2022/HSST-QĐ ngày 25/4/2022, Thông báo mở lại phiên tòa số 951/TB-TA ngày 25/5/2022), đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần P - sinh năm 1976 tại Tp. Hồ Chí Minh; Giới tính: nam; Nơi cư trú: ấp Chợ Cũ 2, xã A, huyện Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Hữu T (đã chết), con bà Trần Thị X – sinh năm 1951; Sống như vợ chồng (không đăng ký kết hôn) với Danh Thị Hồng T2 – sinh năm 1986; Con: 01 người, sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

+ Ngày 13/8/1994, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (Bản án số 56 ngày 13/8/1994). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 7/10/1995, đã thi hành xong án phí hình sự và dân sự.

+ Ngày 15/7/1997, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (Bản án số 82 ngày 15/7/1997). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 5/3/1998, đã thi hành xong án phí hình sự và dân sự.

+ Ngày 11/10/2005, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 167 ngày 11/10/2005). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/7/2006, đã thi hành xong án phí hình sự.

+ Ngày 21/5/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 119 ngày 21/5/2009). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/2/2011, đã thi hành xong án phí hình sự.

+ Ngày 21/9/2011, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 312 ngày 21/9/2011). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/9/2013, đã thi hành xong án phí hình sự.

+ Ngày 07/01/2021 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương khởi tố về hành vi “trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị bắt ngày 24/10/2018, tạm giữ đến ngày 30/10/2018 được huỷ bỏ Quyết định tạm giữ. Đến ngày 13/01/2021 bị cáo bị bắt trong vụ án hình sự “Trộm cắp tài sản”, theo Quyết định khởi tố vụ án số 05 ngày 07/01/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bình Dương. Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Dương. Có mặt.

Bị hại: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1987 Địa chỉ: ấp 1, xã B, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần P là người có tiền án về tội Trộm cắp tài sản. Lúc 16 giờ ngày 23/10/2018, T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện thoại rủ P đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. P đồng ý. P đi xe ôm từ Dĩ An, Bình Dương đến khu vực Cổng 11, TP Biên Hòa gặp T1. T1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ, không rõ biển số chở P đi tìm tài sản trộm cắp ở khu vực xã B, huyện Long Thành. Sau đó, T1 đưa xe mô tô cho P điều khiển còn T1 đi bộ để tìm tài sản trộm cắp. Lúc này, P điều khiển xe ra hướng ngã ba hướng đi Dầu Giây nằm đợi T1 ở quán cà phê ven đường. Đến 03 giờ ngày 24/10/2018, T1 điều khiển xe mô tô Vision biển số 60C1- 920.19 đến giao cho P điều khiển cùng giấy đăng ký xe và 02 đồng hồ (01 đồng hồ đeo tay hiệu DW, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Romace) cùng số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó cả hai điều khiển xe về khu vực huyện Đạ Tẻ, tỉnh Lâm Đồng để tìm nơi tiêu thụ tài sản vừa trộm được. Trên đường đi, T1 và P ghé vào tiệm sửa xe ven đường để ngủ thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ P, còn T1 chạy thoát.

Tại Cơ quan điều tra P khai nhận sau khi bị bắt P mới biết số tài sản trên là do T1 trộm cắp tại nhà bà Vũ Thị T ở ấp 1, xã B, huyện Long Thành. Việc bà T khai còn bị mất số tiền 12.000.000 đồng (gồm 4.000.000 đồng để trong cốp xe và 8.000.000 đồng trong ví) thì P không biết vì người trực tiếp trộm cắp là T1, P không biết T1 trộm được tài sản gì và bao nhiêu tiền.

Tại bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 96 ngày 29 tháng 10 năm 2018 kết luận:

+ 01 xe máy hiệu Honda Vison, biển số 60C1-920.19 màu đỏ đen, đã qua sử dụng có giá 23.000.000 đồng.

- 01 đồng hồ đeo tay hiệu DW seri: 01150119898 màu vàng đen, đã qua sử dụng có giá trị 1.000.000 đồng.

- 01 đồng hồ đeo tay hiệu Romace seri: 1126M màu vàng đen, đã qua sử dụng có giá trị 1.500.000 đồng.

Tổng cộng: 25.500.000 đồng.

Tổng cộng tài sản thiệt hại: 27.500.000 đồng.

Vật chứng: 01 xe máy hiệu Honda Vison, biển số 60C1-920.19, 01 đồng hồ đeo tay hiệu DW, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Romace và số tiền 2.000.000 đồng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại cáo trạng số 81/CT-VKSLT ngày 01 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trần P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên bị cáo Trần P phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị xử phạt bị cáo Trần P: từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng Viện kiểm sát đề nghị: Tài sản thiệt hại đã được thu hồi, Cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu là đúng quy định.

Về trách nhiệm dân sự Viện kiểm sát đề nghị: Bị hại bà Vũ Thị T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì thêm, nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo thống nhất về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo không có ý kiến hay tranh luận gì khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa bị hại bà Vũ Thị T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa, trong giai đoạn điều tra bà T đã có lời khai và không có yều cầu gì. Do vậy việc vắng mặt của bị hại tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về căn cứ buộc tội: Lời khai nhận tội của bị cáo P có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án nên đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 03 giờ ngày 24/10/2018, tại nhà của bà Vũ Thị T ở ấp 1, xã B, huyện Long Thành, Trần P cùng đối tượng T1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi trộm cắp 01 xe máy hiệu Honda Vison, biển số 60C1- 920.19, 01 đồng hồ đeo tay hiệu DW, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Romace và số tiền 2.000.000 đồng của bà T. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 27.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo Trần P đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo theo tội danh và khoản, Điều nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về nhân thân: Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 xe máy hiệu Honda Vison, biển số 60C1-920.19, 01 đồng hồ đeo tay hiệu DW, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Romace và số tiền 2.000.000 đồng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, Cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu là bà Vũ Thị T là đúng quy định.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Vũ Thị T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì thêm; nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[10] Về vấn đề khác: Đối với đối tượng tên T1 đồng phạm với P trộm cắp tài sản, hiện chưa xác minh được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[12] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 292, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Trần P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần P: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2021 (được trừ đi thời gian bị tạm giữ từ ngày 24/10/2018 đến ngày 30/10/2018).

Về án phí: Bị cáo Trần P phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 83/2022/HS-ST

Số hiệu:83/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về