TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 82/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 79/2024/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2024/QĐXXST- HS ngày 13/3/2024 đối với:
Bị cáo: Bùi Văn L, sinh năm: 1996 tại: Thừa Thiên Huế; nơi ĐKHKTT và cư trú: Số B L, Phường D, thành phố Đ; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn V và bà Lê Thị T; vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án số 09/2015/HSST ngày 09/01/2015, Bùi Văn L bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt ngày 24/07/2016 và đóng các khoản án phí ngày 30/9/2016.
Tại Bản án số 38/2024/HS-PT ngày 21/3/2024, Bùi Văn L bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 36 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích”.
Bị cáo bị bắt từ ngày 28/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. Có mặt.
Bị hại: Anh Phan Nguyễn Thanh H, sinh năm 2003; nơi ĐKHKTT: Thôn A, xã H, thị xã H, tỉnh Bình Định; tạm trú: Số B P, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người chứng kiến: Anh Nguyễn Doãn N, sinh năm 2003; trú tại: Số B P, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Văn L là đối tượng không có công việc ổn định. Vào lúc 23 giờ 30 phút, ngày 27/10/2023, sau khi chơi điện tử ở quán I đường N, Phường H, thành phố Đ, L chuẩn bị một tuốc nơ vít cất trong người rồi đi bộ trên các tuyến đường tại thành phố Đ tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến dãy nhà trọ ở địa chỉ số B P, Phường H, thành phố Đ, Lâm Đồng, L phát hiện 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ - đen, biển số 77H7-X của anh Phan Nguyễn Thanh H đang dựng ở đường luồng hành lang của dãy trọ, không có người trông coi, cổng nhà không khoá. L mở cổng đi vào sân kiểm tra xe mô tô thấy không khoá cổ nên L dắt xe ra cổng cách vị trí đậu xe lúc đầu khoảng 2 – 3 mét thì bị trượt chân té ngã và tạo ra tiếng động. Lúc này, anh Phan Nguyễn Thanh H đang ngủ trong phòng trọ nghe tiếng động nên chạy ra thấy L đang dắt xe mô tô biển số 77H7-X của mình lên dốc trước cổng thì anh H hỏi L: “Đang làm gì đấy, ăn cắp đúng không?”. Thấy anh H từ phòng trọ đi ra, Lý nghĩ là người thuê trọ nên lên tiếng nhờ anh H phụ đẩy xe mô tô lên trên đường. Anh H giữ lại rồi hô hoán nhờ bạn cùng phòng tên Nguyễn Doãn N và mọi người xung quanh trình báo sự việc đến Công an P thành phố Đ. Tại cơ quan Công an, Bùi Văn L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Bị hại anh Phan Nguyễn Thanh H bị chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen - bạc, biển số 77H7-X đã qua sử dụng. Tại bản kết luận định giá tài sản số 165/KL-HĐĐG ngày 02/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng kết luận: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen - bạc; số máy 5C62-004116; số khung 206Y-004116, đã qua sử dụng. Theo tài liệu Cơ quan điều tra cung cấp, xe được mua lại thời điểm năm 2016. Tại thời điểm định giá, xe mô tô còn hoạt động bình thường, có giá trị giao dịch phổ biến tại các cửa hàng mua bán lại là 5.000.000 đồng. Ngày 03/11/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 112/QĐ-ĐTTH trả lại xe mô tô trên cho chủ sở hữu là anh Phan Nguyễn Thanh H. Anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. (BL 20, 21, 52- 69) Cáo trạng số 96/CT-VKSĐL-LĐ ngày 19/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện Viện kiểm sát thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng nêu ý kiến giải quyết vụ án: Giữ nguyên bản Cáo trạng và đề nghị xét xử:
Bị cáo Bùi Văn L về tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt tại Bản án số 38/2024/HS-PT ngày 21/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng chưa chấp hành là 36 tháng tù, buộc bị cáo Bùi Văn L phải chấp hành chung cho cả hai bản án từ 54 tháng tù đến 60 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tuốc nơ vít dài 25 cm, phần tay cầm bằng nhựa trong suốt dài 5cm, phần thân bằng kim loại dài 20cm.
Bị hại anh Phan Nguyễn Thanh H: Tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại trình bày đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì đối với bị cáo. Đề nghị xét xử theo quy định pháp luật.
Lời sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp.
[2] Bị hại anh Phan Nguyễn Thanh H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu nhận vật chứng, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 27/10/2023 tại nhà trọ số B P, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, Bùi Văn L đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen - bạc trị giá 5.000.000đ của anh Phan Nguyễn Thanh H.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội. Bị cáo có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng để có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại để lén lút chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trước đó nhưng lại tiếp tục phạm tội mới với lỗi cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Mặc dù giá trị tài sản bị trộm cắp trong vụ án này không lớn nhưng Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo rất coi thường pháp luật khi tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần phải có mức án thật nghiêm khắc để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi lượng hình.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tuốc nơ vít dài 25 cm, phần tay cầm bằng nhựa trong suốt dài 5cm, phần thân bằng kim loại dài 20cm
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Bùi Văn L 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt tại Bản án số 38/2024/HS-PT ngày 21/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng chưa chấp hành là 36 tháng tù, buộc bị cáo Bùi Văn L phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 54 (năm mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) tuốc nơ vít dài 25 cm, tay cầm bằng nhựa trong suốt dài 5cm, phần thân bằng kim loại dài 20cm.
(Theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 20/02/2024)
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2024/HS-ST
Số hiệu: | 82/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về