Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 16/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2022 tại điểm cầu trụ sở Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh Bắc Ninh và điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Toà án nhân dân huyện TT, tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 70/2022/TLST-HS, ngày 5 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2022/QĐXXST-HS ngày 01/11/2022 đối với:

Bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1997.

Tên gọi khác: Không.

HKTT: Thôn Kênh, xã NX, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh.

Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 11/12. Họ và tên bố: Nguyễn Văn V, sinh năm 1964. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1964. Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ 03. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/7/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. (bị cáo có mặt tại phiên toà)

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1955. (đề nghị vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Ngọc Khám, xã GĐ, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh.

2. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977. (đề nghị vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Lạc Thổ Nam, thị trấn H, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1964 (vắng mặt) Địa chỉ: HKTT: Thôn Kênh, xã NX, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh.

2. Anh Nguyễn Hữu C, sinh năm 1991. (đề nghị vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Tam Á, xã GĐ, huyện TT, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 28/07/2022 Nguyễn Văn H từ nhà đi nhờ xe của một người không quen biết đến quán bia thuộc thôn Tam Á, xã GĐ, huyện TT để uống bia. Do không có tiền tiêu sài nên H đã nảy sinh ý đồ trộm cắp tài sản. H đi bộ vào trong thôn Tam Á với mục đích xem ai có tài sản gì sơ hở thì trộm cắp. Khi đến nhà ông Nguyễn Văn B, H phát hiện sân nhà ông B dựng một xe máy Honda Dream BKS 99F1-380.xx. Thấy không có người trông coi H liền đi vào thì thấy xe bị khoá cổ, H một tay giữ tay lái, một chân đạp vào tay lái kia của chiếc xe để phá khoá cổ. Sau khi phá được khoá H dắt xe ra ngoài đường, khi đi được một đoạn thì bị người dân phát hiện và đuổi theo. H dắt xe bỏ chạy được khoảng 50m thì bị bắt và bị thu giữ chiếc xe máy mà H đã trộm cắp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 29/KLGGD – HĐĐG ngày 30/7/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện TT đã kết luận: Chiếc xe mô tô Honda Dream BKS 99F1 -380-2x tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 14.000.000 đồng.

Ngoài ra trong quá trình điều tra H đã khai nhận: Khoảng 8 giờ ngày 6/7/2022 H có đi nhờ xe lên khu vực thôn Lạc Thổ Nam, thị trấn H, huyện TT. Do không có tiền tiêu sài nên H cũng đã nảy sinh ý đồ xem ai có sơ hở thì trộm cắp tài sản. H đi đến khu vực chùa thôn Lạc Thổ Nam thì phát hiện có 01 xe mô tô Honda Dream BKS 98B1 -200-xx số máy 1431628, số khung 131572 đang dựng ở sân chùa, xe vẫn cắm chìa khoá ở ổ khoá điện. Quan sát thấy không có ai trông nom H liền đi đến và dắt xe ra ngoài đường, sau đó H nổ máy và điều khiển xe đi về nhà. Do sợ bị phát hiện nên H đã tháo biển số xe vứt đi, còn xe thì H dùng để đi lại. Đến ngày 28/7/2022 do không có tiền tiêu sài nên H đã đem xe đến cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Nguyễn Hữu C, sinh năm 1991 ở tại thôn Tam Á, xã GĐ hỏi mượn anh C 1.000.000 đồng và để xe máy lại làm tin. Khi sự việc trộm cắp tài sản của H bị phát hiện, ngày 4/8/2022 anh C đã tự giác nộp lại chiếc xe cho Cơ quan điều tra Công an huyện TT. Số tiền 1.000.000 đồng mà H mượn của anh C sau này đã được ông Nguyễn Văn V là bố đẻ của H thay mặt H trả, anh C đã nhận tiền và không có yêu cầu gì.

Tại Bản kết luận định giá số 32/KL – HĐĐG ngày 30/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TT kết luận: Chiếc xe mô tô Honda Dream màu nâu số máy 1431628, số khung 131572 tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 11.000.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định được chiếc xe máy là của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977 trú tại thôn Lạc Thổ Nam, trị trấn Hồ, huyện TT. Chị H tình bày nguồn gốc chiếc xe là do chị mua của một thanh niên từ năm 2015. Khi đó có thanh niên bán xe cho chị nhưng nói quên giấy tờ ở nhà. Sau khi kiểm tra xe thấy số máy, số khung cũng như ổ khoá còn đầy đủ không có biểu hiện của xe trộm cắp nên chị đã mua với mục đích để đi lại với giá 12.000.000 đồng, nhưng chị mới trả trước 7.000.000 đồng, số 5.000.000 đồng thì trả sau khi có giấy tờ xe. Nhưng sau đó người thanh niên cũng không quay lại trả giấy tờ cũng như lấy nốt số tiền còn lại. Khoảng 10 giờ ngày 6/7/2022 chị để xe ở sân chùa thôn Lạc Thổ Nam, thị trấn H thì bị H trộm cắp mất. Qua truy xuất nguồn gốc cơ quan điều tra xác định được chủ sở hữu chiếc xe là anh Nguyễn Văn Đạt, sinh năm 1986 người thôn Hùng Lãm 3, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Anh Đạt trình bày khoảng tháng 9/2015 anh đã bị kẻ gian trộm cắp chiếc xe này tại nhà riêng.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 71a/CT-VKSTT ngày 30/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT truy tố Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo thừa nhận buổi sáng ngày 6/7/2022 bị cáo đã có hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô Honda Dream màu nâu số máy 1431628, số khung 131572 đang do chị Nguyễn Thị H quản lý sử dụng. Bị cáo cũng thừa nhận chiều tối ngày 28/7/2022 bị cáo đã trộm cắp chiếc xe máy Honda Dream BKS 99F1-380.xx của ông Nguyễn Văn B. Đối với người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và được Hội đồng xét xử công bố tại phiên toà. Bị cáo H nhất trí với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TT thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra chứng cứ để buộc tội Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” với giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 25.000.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ Luật hình sự, xử phạt H từ 16 đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 28/7/2022. Do bị cáo kinh tế phụ thuộc gia đình nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông B đã nhận lại tài sản, chị H cũng đã đồng ý giao nộp cho cơ quan điều tra chiếc xe máy Honda Dream màu nâu số máy 1431628, số khung 131572 và cũng không có yêu cầu gì đối với bị cáo về việc bồi thường nên không xem xét giải quyết. Đối với ông Viên bố đẻ bị cáo H là người đã trả thay bị cáo số tiền 1.000.000 đồng cho anh C, ông Viên cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết. Anh C đã nhận lại số tiền 1.000.000 đồng cho H vay từ ông Viên và cũng không có yêu cầu gì nên cũng không xem xét giải quyết.

Bị cáo H nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản như Cáo trạng đã truy tố là đúng. Trong phần nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cũng như miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, của bị cáo và của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thể hiện trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, có căn cứ để xác định:

Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đối với tài sản, ngày 6/7/2022 bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút để chiếm đoạt chiếc xe máy Honda Dream màu nâu số máy 1431628, số khung 131572 có trị giá 11.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị H. Ngày 28/7/2022 bị cáo lại có hành vi lén lút lợi, dụng sơ hở của chủ sở hữu để chiếm đoạt chiếc xe máy Honda Dream BKS 99F1-380.xx trị giá 14.000.000 đồng của ông Nguyễn Văn B. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo 02 lần trộm cắp có giá trị 25.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo H đã phạm vào tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ Luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT truy tố bị cáo H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ Luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Về tích chất, mục đích, nguyên nhân của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an ninh trên địa bàn. Bị cáo do thích ăn chơi, lười lao động, mải chơi Game nên đã trộm cắp tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu ích kỷ của bản thân. Do vậy cần phải xử lý trách nhiệm hình sự và có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo hai lần trộm cắp tài sản, giá trị tài sản trộm cắp mỗi lần đền trên 2.000.000 đồng nhưng dưới 50.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 02 lần trộm cắp là 25.000.000 đồng nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đối với hành vi trộm cắp tài sản của chị H bị cáo cũng đã tự nguyện khai ra khi chưa có đơn trình báo của người bị hại. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Xem xét các tình tiết của vụ án thì thấy, bị cáo tuy tuổi đời còn trẻ nhưng đã không chịu tu dưỡng bản thân, bị cáo lười lao động, mải chơi Game nên đã đi trộm cắp tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu ích kỷ của bản thân. Do vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tích chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội sau này.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc ổn định, chưa có gia đình riêng, kinh tế phụ thuộc gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Nguyễn Văn B đã nhận được tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì đối với bị cáo H nên không xem xét giải quyết. Đối với chị Nguyễn Thị H, chiếc xe máy mà bị cáo H trộm cắp của chị có liên quan đến vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nên cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để xử lý sau. Phía chị H nhất trí và cũng không có yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự đối với bị cáo H nên cũng không xem xét giải quyết. Đối với ông Viên là người đã trả thay bị cáo số tiền 1.000.000 đồng cho anh C, ông Viên cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết. Anh C cũng đã nhận số tiền mà bị cáo vay do ông Viên trả và cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[4]. Về vật chứng của vụ án: Vật chứng là chiếc xe mô tô Honda Dream BKS 99F1 -380-2x đã trả lại cho ông B nên không xem xét giải quyết. Đối với chiếc xe Honda Dream màu nâu số máy 1431628, số khung 131572 Cơ quan điều tra Công an huyện TT tạm giữ để tiếp tục phục vụ công tác điều tra mà không xử lý trong vụ án này là phù hợp.

[5]. Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ Luật hình sự. Điều 136; Điều 329; Điều 331; Điều 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xử.

1. Xử phạt Nguyễn Văn H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 28/7/2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn H 45 ngày kể từ ngày tuyên án 16/11/2022 để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2022/HS-ST

Số hiệu:82/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về