Bản án về tội trộm cắp tài sản số 810/2019/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 810/2019/HS-PT NGÀY 05/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 712/2018/TLPT-HS ngày 10 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Lê Văn L và đồng phạm, do có kháng cáo của bị cáo Bùi Văn D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

- B cáo có kháng cáo:

Bùi Văn D, sinh năm 1984 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: số 8/21, Khóm 2, Phường 4, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Bùi Văn P (đã chết) và bà Diệp Thị A; có vợ và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ: Ngày 08/9/2017; tạm giam: Ngày 17/9/2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

Những người tham gia tố tụng khác:

Bị cáo Trần Hữu N, sinh năm 1990 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: số 686B/1, ấp P1, xã T, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

Bị cáo Lê Văn L, sinh năm 1971 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: số 309, ấp K, xã T1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo D: Luật sư Đặng Văn T2, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: Văn phòng luật sư Chu Toàn (Số 54, Đường Dương Thị Mười, phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh) (có mặt).

- Bị hại: Công ty C.

Địa chỉ: Ấp T3, xã T4, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Đại diện theo pháp luật là: Ông Trần Đình V, sinh năm 1960 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn L là nhân viên bảo vệ của công ty TNHH bảo vệ Phi Long được phân công đến làm Tổ trưởng tổ bảo vệ tài sản tại công ty C, địa chỉ khu Công nghiệp C, ấp K, xã T1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp; Trần Hữu N là công nhân trong kho lạnh, sắp xếp các mặt hàng cá tra phi lê trong kho; Bùi Văn D là công nhân trong kho lạnh, có nhiệm vụ điều khiển xe nâng trong kho để vận chuyển các “pallet” trong kho khi có yêu cầu. Do làm chung tại công ty C các bị cáo quen biết nhau nên L chủ động khởi xướng và rủ rê cùng nhau hai lần thực hiện trộm cắp tài sản tại công ty C, nội dung diễn biến như sau:

Lần 1: Vào khoảng 06 giờ ngày 06/8/2017 khi đang trực bảo vệ tại Công ty C, Lê Văn L sử dụng điện thoại Nokia 6300 màu vàng, có sim số 01204739426 gọi cho Trần Hữu N số điện thoại 0932410235, Bùi Văn D số điện thoại 01217271761 để hỏi tình hình trong kho cá phi lê có nhiều không, khi được biết cá trong kho còn nhiều thì L rủ N, D cùng nhau lấy trộm cá phi lê thành phẩm đem bán lấy tiền tiêu xài thì N, D đồng ý. L hỏi N có quen biết ai mua cá phi lê không thì N nói: Có quen biết người tên Vũ ở Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ họ tên địa chỉ), vì Vũ đã nhiều lần đến công ty C mua cá vụn.

Sau khi bàn bạc thống nhất trộm cá phi lê N dùng điện thoại Iphone 6 plus màu đen xám liên lạc với Vũ để trao đổi việc bán cá phi lê thành phẩm được Vũ đồng ý; Còn Lê Văn L liên hệ với Lê Quốc Cường là tài xế xe container của công ty TTHH vận tải S (do Cường đến công ty C chở hàng vài lần nên biết) hẹn tối ngày 06/8/2017 đến Công ty C chở hàng đi tiêu thụ thì Cường đồng ý. Giá chở thuê thống nhất sau khi bán cá được sẽ trả công từ 20 đến 25 triệu đồng, nếu thuê xe đến Công ty mà không có hàng thì phải bồi thường tiền xe từ 05 đến 10 triệu đồng, cả 03 người đều thống nhất thực hiện.

Đến khoảng 22 giờ ngày 06/8/2017, L gọi điện cho D, N vào công ty để lấy trộm, L tắt hệ thống camera ở cổng bảo vệ trước để N, D qua cổng không bị ghi hình, Võ Hữu Nhiều điều khiển xe mô tô Exciter của mình chở D còn N điều khiển xe Wave alpha màu xám, biển số 66VI-248.43 cùng vào Công ty, D đến khu Vực văn phòng kéo “CP” xuống tắt các camera trong kho rồi đi vào kho lạnh bằng cửa xuất hàng số 4, D lấy ra hai chìa khóa lục giác đưa cho N 1 chìa và giữ lại một chìa cùng nhau mở cửa kho lạnh số 01 và số 02 để vào bên trong, D sử dụng xe nâng có sẵn trong kho điều khiển đưa các “pallet” cá phi lê đem ra để ở phòng đệm (phòng tập kết hàng chuẩn bị xuất kho) còn N đứng ở cửa xuất hàng số 3 chờ D chở các “pallet” cá đem ra đến nơi thì điện thoại thông báo cho L biết để liên hệ Cường chạy xe Container vào Công ty cho N đưa các “pallet” cá lên xe.

Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 06/8/2017 khi D đã chuyển được 18 “pallet” cá ra phòng đệm, thì Cường điều khiển xe Container biển số 65N-2468 kéo theo rơ mooc đến và lùi xe vào cửa xuất hàng số 3. Nhã dùng xe con rùa có sẳn ở phòng đệm đưa hết 18 “pallet” cá phi lê lên thùng container rồi ra ngoài lên xe để Cường điều khiển đi trước còn D ở lại dùng chìa khóa lục giác khóa cửa kho lạnh số 01 và số 02 trả về hiện trạng ban đầu. Sau đó Cường điều khiển xe Container chở N đến bệnh viện Đa khoa Sa Đéc dừng lại đợi D điều khiển xe môtô Wave alpha biển số 66V1-248.43 vào bệnh viện gửi xe rồi lên xe Container cùng nhau đi TP. Hồ Chí Minh bán số cá trộm. Sau khi cả 03 người rời khỏi công ty thì L lên văn phòng bật lại toàn bộ “CP” ở Văn phòng như vị trí ban đầu và tiếp tục làm công việc bảo vệ tại Công ty C.

Đến khoảng 06 giờ ngày 07/8/2017, Cường điều khiển xe container đến Kho lạnh N1 thuộc Công ty THHH N2, địa chỉ tại Lô 16A, đường số 9, khu công nghiệp Tân Tạo, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh để bán cá phi lê cho Vũ (chưa xác định tên tuổi cụ thể) với số lượng cân là 7.000kg, bán với giá 29.000đ/1kg được số tiền 203.000.000 đồng. Sau đó D và N đón xe khách đi về đến thành phố Sa Đéc khoảng 15 giờ cùng ngày hẹn gặp L tại quán cà phê gần chùa Phước Huệ để chia số tiền 203.000.000 đồng như sau: L 96.000.000 đồng bao gồm trả tiền thuê xe container cho Lê Quốc Cường 25.000.000 đồng (còn lại 71.000.000 đồng), D nhận số tiền 53.500.000 đồng, N được chia số tiền 53.500.000 đồng.

Lần 2: Khoảng thời gian từ 11 đến 12 giờ ngày 02/9/2017, Lê Văn L tiếp tục điện thoại cho D và N rủ lấy trộm cá tra phi lê của công ty c thì cả 2 đều đồng ý nên L điện thoại cho Lê Quốc Cường tài xế xe container hẹn đến Công ty chở cá đi Thành phố Hồ Chí Minh nhu lần trước rồi căn dặn với 03 người khi nào điều kiện thuận lợi, L sẽ điện thoại thông báo vào công ty thực hiện trộm.

Khoảng 23 giờ 30 cùng ngày, sau khi bàn bạc thống nhất N điều khiển xe máy hiệu Wave biển số: 66V1 -248.43 chở D đến công ty và đi vào bên trong L đưa D01 ống nhựa PVC dài khoảng 1,2 mét và miếng băng keo màu đen, kêu D đi lên văn phòng tại cầu thang lầu 1, dùng ống nhựa dán miếng keo màu đen vào một đầu rồi đua lên che camera lại, D kéo tất cả “CP” trên vách tường tại cầu thang xuống để tắt toàn bộ camera trong kho lạnh, D dùng áo khoác của mình trùm đầu lại. Sau khi đột nhập vào bên trong D điều khiển xe nâng chở N đến các vị trí camera trong kho dùng bọc nylon màu đen trùm camera lại rồi điện thoại cho L đi lên văn phòng bật “CP” lên cho camera hoạt động bình thường. Đến khoảng 00 giờ 15 phút ngày 03/9/2017 khi D đã chuyển được 18 pallet cá ra phòng đệm, thì Cường điều khiển xe Container biển số: 65N-2468 kéo theo rơ mooc biển số: 65R-00056 đến đưa hết số cá phi lê lên thùng container rồi cùng nhau đi Thành phố Hồ Chí Minh bán số cá trộm cho người đàn ông tên Vũ giống nhu lần trộm ngày 06/8/2017, với số lượng là 9.700kg, giá 29.000đ/1kg được số tiền là 275.000.000 đồng. Khi trả tiền, Vũ đua 116.000.000 đồng tiền mặt và 7.000 USD (tương đương 159.000.000 đồng tiền Việt Nam). Đến khoảng 15 giờ ngày 03/9/2017 khi về tới Thành phố Sa Đéc đến gặp L tại phòng Vip 3, nhà hàng Hai Lúa để chia số tiền như sau: L nhận 4.000 USD, D 1.500 USD và 46.000.000 đồng, N nhận 1.500 USD và 46.000.000 đồng, Cường nhận 24.000.000 đồng.

Như vậy, hai lần trộm cá phi lê L và đồng bọn bán được 16.700 kg với số tiền 478.000.000 đồng (trong đó có 7.000 USD). L được chia số tiền 178.500.000 đồng, trong đó có nhận 20.000.000 đồng từ Nhã, tiêu xài hết 156.000.000 đồng còn lại 1.000 USD (tương đương 22.500.000 đồng); Bùi Văn D được chia số tiền 133.500.000 đồng, đã tiêu xài hết 10.100.000 đồng, trong đó cho Bùi Minh Tý 1.000.000 đồng, Huỳnh Thị Kim Lang 3.000.000 đồng, Bùi Văn Tư 400.000 đồng, còn lại 123.400.000 đồng; Trần Hữu N được chia số tiền 131.500.0 đồng, đưa cho L 20.000.000 đồng, tiêu xài hết 61.500.000 đồng trong đó có 1.500 USD (tương đương 32.000.000 đồng) N trả nợ cho người em tên Trần Minh Hung nhưng đến nay Hưng không có điều kiện giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Ngày 04/9/2017, Công ty C phát hiện bị mất trộm nên trình báo với Cơ quan Công an. Đến ngày 07/9/2017 thì Lê Văn L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sa Đéc tự thú và trình bày lại toàn bộ sự việc, ngày 08/9/2017 Bùi Văn D và Trần Hữu N bị bắt để làm rõ vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 38/HĐ.ĐGTS ngày 20/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thành phố Sa Đéc kết luận: Cá phi lê đã thành phẩm Size 5-7 và Size 7-9 ngày 06/8/2017 và ngày 02/9/2017 giá trị: 50.805,79 đồng/1kg x 16.700 kg = 848.456.693 đồng, trong đó trị giá lần 01 là 355.640.530 đồng; lần 02 trị giá 492.816.163 đồng.

Ngày 26/02/2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp đã có Công văn số 45/PC45 trao đổi với Công ty TNHH N2 để xác minh người đàn ông tên Vũ thì được Ban Giám đốc Công ty xác nhận: Trước và hiện tại Kho lạnh Nhan Hòa không có nhân viên nào tên Vũ hoặc Dũ làm việc tại Công ty.

Quá trình điều tra Lê Văn L, Bùi Văn D và Trần Hữu N đều khai trong lần trộm ngày 06/8/2017 có Võ Hữu Nhiều, sinh năm 1990 là nhân viên bên bộ phận cơ điện của công ty C cùng thực hiện và sử dụng số điện thoại 0939430212 để liên lạc nhiều lần với số điện thoại 01204739426 của L và số điện thoại 01217271761; 01215854560 của D, sau khi trộm Nhiều được chia số tiền 33.000.0000 đồng. Tuy nhiên, theo kết quả kiểm tra bảng chi tiết dữ liệu online do nhà mạng Mobifone cung cấp về số điện thoại 0939.430.212 chỉ có nhận 01 cuộc gọi đến duy nhất từ số 01217271761 lúc 16 giờ 25 phút 16 giây mà không còn số điện thoại nào của L, D thể hiện có liên lạc với Nhiều. Ngoài ra Võ Hữu Nhiều không thừa nhận cùng các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 06/8/2017 nên chưa đủ cơ sở kết luận Nhiều là đồng phạm trong vụ án này. Đối với Lê Quốc Cường đã bỏ đi khỏi địa phương chưa làm việc được, nên tiếp tục điều tra xử lý sau.

Tài sản, vật chứng tạm giữ:

1. Khám xét chỗ ở Trần Hữu N thu giữ:

+ 01 (một) đôi dép da màu đen, hiệu ADIDAS (đã qua sử dụng).

+ 01 (một) cái áo thun màu xám, xanh, trắng hiệu POLO (đã qua sử dụng) + 01 (một) quần Jean, màu đen - xanh (đã qua sử dụng) + 01 (một) cái áo khoát dài tay màu đen, hiệu ZONA HOUSE (đã qua sử dụng) + 01 (một) điện thoại di động Iphone 6 plus, màu đen - xám; Imel: 354454062183307, trong máy có 01 sim Mobifone số seri 84011610513541420T (máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng) + Tiền Việt Nam: 50.000.000 đồng.

+ Một xe máy, hiệu Wave Alpha, biển số: 66V1-248.43, màu xám - đen; Số máy: C12E-5339667; số khung: 121XDY339491, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

2. Khám xét chỗ ở Bùi Văn D thu giữ:

+ 02 (hai) cái bao tay bằng chỉ len, màu trắng - đỏ (đã qua sử dụng) + 01 (một) đôi dép da màu đen, hiệu WORD POLO (đã qua sử dụng).

+ 01 (một) cái áo thun ngắn tay, màu đỏ, trước ngực có in hình logo con gà (đã qua sử dụng) + 01 (một) quần kaki, màu kem, hiệu BLUE EXCHANGE (đã qua sử dụng).

+ 01 (một) cái khoát dài tay màu xám, hiệu RUYIFUSHI (đã qua sử dụng).

+ 02 (hai) chìa khóa lục giác, loại 5 mm.

+ Tiền Việt Nam: 190.000.000đ, trong đó có 70.000.000 đồng là tiền cá nhân của Bùi Thị Hồng Hoa (vợ D). Hoa thống nhất nộp số tiền 10.100.000 đồng để khắc phục hậu quả cho D.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng - đen; Core: 059Z0V8, Imel: 357321087507967; Imel 2: 357321087507975,1 sim Mobifone gắn trong máy có seri 8401130550354314, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung G570, màu vàng; Imel: 355079/08/656629/1; Imel 2: 355080/08/656629/9, bên trong máy có một sim Mobifone số seri 84011705512322270T.

+ 01 thẻ nhớ 16G hiệu SanDisk Ultra (máy đã qua sử dụng) + Bùi Minh Tý nộp số tiền 1.000.000đ.

+ Huỳnh Kim Lang nộp số tiền 2.000.000đ.

+ Bùi Văn Tư nộp số tiền 400.000đ.

3. Lê Văn L:

+ Thu số tiền 1.000USD và 50.000.000 đồng từ gia đình bị cáo giao nộp;

+ 01 (một) điện thoại di động Nokia 6300, màu vàng, không sừn, số hiệu: Vo7.30; 07-05-09; RM-217 (c) Nokia;

+ 01 (một) USB màu đen hiệu KINGSTON 16G do Cơ quan CSĐT thành phố Sa Đéc thu hình ảnh Camera;

+ 01 (một) ống nhựa bằng mũ PVC khoảng 1,2m không truy tìm được.

- Tài sản, vật chứng đã xử lý:

+ Đã xử lý trao trả cho Công ty C, đại diện ông Trần Đình V nhận tổng số tiền 233.500.0 đồng và 1.000 USD, trong đó: Lê Văn L 1.000 USD và 50.000.000 đồng; Bùi Văn D: 133.500.000 đồng; Trần Hữu N 50.000.000 đồng.

+ Trả lại cho Bùi Thị Hồng Hoa (vợ D) số tiền 70.000.000 đồng là tiền của cá nhân không liên quan đến vụ án.

+ Trả lại cho bà Trần Thị B (mẹ ruột N) 01 xe máy hiệu Wave biển số: 66V1 -248.43 (xe này của Nguyễn Phú Toàn, cầm cố cho bà Trần Thị B vào năm 2014 với giá 10.000.000 đồng, sau đó bà giao cho N sử dụng làm phương tiện đi lại không biết N sử dụng đi trộm tài sản của người khác, hiện nay Toàn không có mặt ở địa phương.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 32/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:

Tuyên bố: bị cáo Bùi Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản” .

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; Điều 17; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn D 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 08/9/2017.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Văn L, Trần Hữu N, xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/11/2018 bị cáo Bùi Văn D kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin phân chia trách nhiệm bồi thường cụ thể cho 03 bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử buộc 03 bị cáo Lê Văn L, Trần Hữu N và Bùi Văn D phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho Công ty C với số tiền là 592.456.693d. Trong đó có anh Trần Minh Hùng có nghĩa vụ nộp 32.000.000đ (số còn lại 03 bị cáo phải bồi thường là 560.456.693d) mà không tuyên chia trách nhiệm theo phần, bị cáo không biết thi hành, nên bị cáo D kháng cáo yêu cầu chia trách nhiệm theo phần cho cả 03 bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Bùi Văn D vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nêu trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn D về việc xin giảm nhẹ hình phạt; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn D về việc chia theo phần cho 03 bị cáo L, N và D. Trong số tiền án sơ thẩm buộc 03 bị cáo phải bồi thường cho Công ty C mà không chia theo phần.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Bùi Văn D cho rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ đề nghị giảm án cho bị cáo D.

Bị cáo L, bị cáo N thì đề nghị tòa chia theo phần các bị cáo phải bồi thường cho Công ty C theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Văn D làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét về nội dung vụ án thì thấy:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Các bị cáo Lê Văn L, Trần Hữu N và Bùi Văn D là nhân viên bảo vệ và công nhân của Công ty C Các bị cáo bàn bạc thống nhất và thực hiện hành vi trộm tài sản là cá phi lê thành phẩm Size 5-7 và Size 7-9 của Công ty 02 lần. Các bị cáo thừa nhận đã trộm được 16.700kg đem đi bán được số tiền 478.000.000đ, chia nhau tiêu xài.

Theo Kết quả định giá 16.700kg cá phi lê thành phẩm nêu trên của Hội đồng định giá trong tố tụng vụ án hình sự thì bằng 848.456.693đ. Sau khi vụ án phát hiện các bị cáo và gia đình các bị cáo bồi thường được 256.000.000đ, số còn lại chưa bồi thường là 592.456.693đ. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt đối với các bị cáo là đúng.

Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm có phân hóa vai trò của từng bị cáo, xử phạt bị cáo Lê Văn L 14 năm tù; xử phạt bị cáo N 12 năm tù và bị cáo D 10 năm tù (02 bị cáo Lê Văn L, Trần Hữu N không có kháng cáo, kháng nghị nên phần hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với 02 bị cáo này đã có hiệu lực pháp luật).

Đối với bị cáo Bùi Văn D kháng cáo xin giảm hình phạt thì Hội đồng xét xử thấy: Tòa án cấp sơ thẩm xác định vai trò của bị cáo đứng sau bị cáo Lành và bị cáo N, nên xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án đối với 02 bị cáo như trên là đúng, phạt bị cáo D 10 năm tù là xử dưới mức khởi điểm của khung hình phạt là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo D kháng cáo xin giảm án nhưng tại phiên tòa cấp phúc thẩm hôm nay bị cáo cũng như người bào chữa chỉ định cho bị cáo không nêu được lý do giảm nhẹ nào khác ngoài tình tiết cấp sơ thẩm đã xem xét, nên không có cơ sở để xét giảm án cho bị cáo.

[3] Về phần trách nhiệm bồi thường:

Số tiền còn lại chưa bồi thường là 592.456.693đ. Trong đó ông Trần Minh Hưng có nghĩa vụ nộp lại 32.000.000đ, còn lại 560.456.693đ. Tòa án cấp sơ thẩm buộc các bị cáo liên đới bồi thường số tiền trên cho Công ty C mà không tuyên trách nhiệm theo phần của từng bị cáo là không đúng theo quy định của pháp luật. Dựa vào số tiền các bị cáo được hưởng nhiều hay ít để tính tỷ lệ chia theo phần. Cụ thể bị cáo Lê Văn L phải chịu 40%, phải bồi thường số tiền 224.182.785,2d; còn lại bị cáo Bùi Văn D và Trần Hữu N phải bồi thường 60% số tiền còn lại, mỗi bị cáo phải bồi thường là 168.136.953đ.

[4] Án sơ thẩm tính án phí luôn số tiền 32.000.000đ mà ông Trần Minh Hưng có nghĩa vụ nộp để bồi thường cho Công ty C để buộc các bị cáo phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là không đúng nên được sửa lại như sau:

Bị cáo Lê Văn L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 10.567.306đ, bị cáo Trần Hữu N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 7.925.480đ và bị cáo Bùi Văn D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 7.925.480đ, chứ không phải buộc các bị cáo L, N, D liên đới nộp đến 27.698.200đ án phí dân sự sơ thẩm như án sơ thẩm xử.

[5] Quan điểm đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định trên nên được ghi nhận.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên xử 1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Bùi Văn Duyên.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; Điều 17; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Bùi Văn D 10 (mười) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2017.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Bùi Văn D theo Quyết định tạm giam số 2045/2019/HSPT-QĐTG ngày 05/12/2019 của Hội đồng xét xử.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn D về việc yêu cầu chia theo phần đối với số tiền mà các bị cáo phải bồi thường tiếp cho Công ty c.

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 288, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc 03 bị cáo Lê Văn L, Trần Hữu N và Bùi Văn D liên đới bồi thường tiếp cho Công ty C số tiền là 560.456.693đ, ngoài số tiền 32.000.000đ mà ông Trần Minh Hưng phải có trách nhiệm nộp để bồi thường cho Công ty C; chia theo phần thì bị cáo Lê Văn L phải bồi thường số tiền 224.182.785,2đ; bị cáo Bùi Văn D và Trần Hữu N mỗi bị cáo phải bồi thường cho Công ty C là 168.136.953đ.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo Lê Văn L phải nộp 10.567.306đ (mười triệu năm trăm sáu mươi bảy nghìn ba trăm lẻ sáu đồng), bị cáo Trần Hữu N và bị cáo Bùi Văn D mỗi người phải nộp là 7.925.480đ (bảy triệu chín trăm hai mươi lăm nghìn bốn trăm tám mươi đồng), chứ không phải buộc các bị cáo L, N, D liên đới nộp đến 27.698.200đ án phí dân sự sơ thẩm như án sơ thẩm xử.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho người được thi hành án.

4. Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 05/12/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 810/2019/HS-PT

Số hiệu:810/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về