Bản án về tội trộm cắp tài sản số 80/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2023/HSST ngày 13 tháng 11 năm 2023; đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H (tên gọi khác: không), sinh năm: 2003; Giới tính: Nam; Nơi thường trú: ấp Tân Phong, xã T, huyện B, tỉnh B; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1982; bị cáo chưa có vợ con; bị cáo có 02(hai) người em sinh năm 2005 và 01(một) người em sinh năm 2007; tiền án; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/9/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Lê Minh H1, sinh năm 1966; nơi thường trú: ấp Tân Hội, xã T, huyện B, tỉnh B.(vắng mặt)

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Lê Chiến T, sinh năm 1993; nơi thường trú: ấp 11, xã Lộc Thuận, huyện L, tỉnh B.(vắng mặt)

2. Trần Thanh S, sinh năm 1985; nơi thường trú: ấp Tân Lập, xã T, huyện B, tỉnh B. (vắng mặt)

3. Lê Văn L, sinh năm 1970; địa chỉ: Kp.NTT.L, huyện L, tỉnh B. (vắng mặt)

4. Lê Hoàng T1, sinh năm 1984; nơi thường trú: ấp Tân Thuận, xã T, huyện B, tỉnh B. (vắng mặt)

5. Lê Tuấn A, sinh năm 1983; nơi thường trú: Kp. N, P.B An, TP. Dĩ An. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 15/7/2023, Lê Chiến T mượn xe mô tô hiệu Sirius, màu đen, biển số 93F1-xxxxx của anh Trần Thanh S chở Vũ Viết L cùng đi đến nhà Nguyễn Minh H ở ấp Tân Phong, xã T, huyện B chơi. Tại đây, H nhờ T chở đến nhà ông Lê Minh H1 (là ông họ của H) ở ấp Tân Hội, xã T để mượn xe mô tô đi công việc, T đồng ý. Khi đến nơi, T ngồi trên xe đợi ngoài sân, còn H đi vào trước cửa nhà gọi ông H1 4-5 lần nhưng không ai trả lời. Lúc này H phát hiện phía trước cửa nhà ông H1 dựng 01 xe mô tô hiệu GUIDA, biển số 61S4-xxxx, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô mang bán kiếm tiền tiêu xài. Khi H đến gần thì thấy xe không có chìa khóa, H tháo và đấu nối dây điện, nổ máy xe rồi chạy đi, T thấy H chạy xe đi thì chạy theo sau.

Khi đi đến khu vực Trường THCS T, H đi xe chậm lại và nói với T “anh chạy vào đây để rước em với”, T đồng ý. Sau đó H điều khiển xe đến nhà Lê Văn B ở ấp Tân Lập, xã T, huyện B để gửi xe vừa lấy trộm được. Tuy nhiên, do B không có nhà nên H tiếp tục điều khiển xe đến lô cao su thuộc ấp Tân Phú, xã T, huyện B để giấu rồi nhờ T chở về. Thấy H mượn xe người khác nhưng không sử dụng mà chạy vào lô cao su cất giấu nên T nghi ngờ H trộm cắp tài sản nhưng sợ liên quan nên T im lặng, không dám hỏi và không nói gì với H.

Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày, ông H1 đến Công an xã T trình báo sự việc, H được mời về trụ sở làm việc. Tại cơ quan Công an, H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của mình, Công an xã T đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu GUIDA, màu vàng, biển số 61S4-xxxx; 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Sirius màu đen, biển số 93F1-xxxxx; 01 áo khoác màu trắng và 01 áo khoác màu xanh.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 109/2023/KL-HĐĐGTS ngày 03/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự, xác định 01 xe mô tô, nhãn hiệu GUIDA, biển số 61S4-xxxx, số máy: 058272, số khung: 058272, tại thời điểm mất ngày 15/7/2023 có giá trị: 2.800.000 đồng.

Cáo trạng số: 80/CTR - VKS ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh B truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố và kết luận.

Bị hại đã nhận lại chiếc xe bị mất và không có yêu cầu bị cáo bồi gì thêm và giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt và không có yêu cầu gì.

Đại diện Viện kiểm sát, sau khi xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng; đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Bị cáo không tham gia tranh luận, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người làm chứng.

Về nội dung vụ án: Ngày 15/7/2023, sau khi đến nhà bị hại phát hiện phía trước cửa nhà ông H1 dựng 01 xe mô tô hiệu GUIDA, biển số 61S4-xxxx, không có người trông coi nên Nguyễn Minh H nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô mang bán kiếm tiền tiêu xài. Khi H đến gần thì thấy xe không có chìa khóa, H tháo và đấu nối dây điện, nổ máy xe rồi chạy đi đến khu vực lô cao su thuộc ấp Tân Phú, xã T, huyện B để giấu và sau đó bi cơ quan có thẩm quyền bắt giữ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 109/2023/KL-HĐĐGTS ngày 03/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự, xác định 01 xe mô tô, nhãn hiệu GUIDA, biển số 61S4-xxxx, số máy: 058272, số khung: 058272, tại thời điểm mất ngày 15/7/2023 có giá trị: 2.800.000 đồng nên bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng hành vi, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, an ninh xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, có sức khỏe, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích tư lợi, muốn có tiền để tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình. Mặt khác, bị cáo là người nghiện matuy, thường xuyên tụ tập bạn bè gây mất trật tự tại địa phương. Do vậy, việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là cần thiết, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng tài sản của người khác, trở thành người có ích cho xã hội.

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị hại đã nhận lại tài sản đã mất và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với Lê Chiến T là người điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Minh H đến nhà ông Lê Minh H1. Cơ quan điều tra xác định trước, trong và sau vụ việc xảy ra H không lên kế hoạch, không bàn bạc gì với T nên T không biết được ý định trộm cắp tài sản của H. Sau khi H chiếm đoạt xe mô tô và mang cất giấu vào lô cao su thì T đã nhận thức được hành vi của H là trộm cắp tài sản nhưng T che giấu, không tố giác hành vi của H đến cơ quan chức năng. Tuy nhiên, hành vi của T chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Che giấu tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 389 Bộ luật hình sự và tội “Không tố giác tội phạm” quy định tại khoản 1, Điều 390 Bộ luật hình sự nên Cơ quan CSĐT không đề cập xử lý là có cơ sở HĐXX không xem xét lại.

Đối với Trần Thanh S là người cho Lê Chiến T mượn xe mô tô để chở Nguyễn Minh H. Cơ quan điều tra xác định S không biết và không liên quan hành vi phạm tội của H nên không đề cập xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng:

Đối với xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu GUIDA, màu vàng, biển số 61S4-xxxx và 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Sirius màu đen, biển số 93F1-xxxxx, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không đề cập xử lý;

Đối với 02 áo khoác các loại (gồm: 01 áo khoác màu trắng và 01 áo khoác màu xanh) là trang phục bị cáo mặc khi thực hiện hành vi phạm tội, đã cũ và qua sử dụng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị mất trộm đã thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đề cập xử lý.

Xét đề nghị về mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận.

Án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Minh H 09(chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 15/9/2023). Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Trách nhiệm dân sự: không đặt ra.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 02 áo khoác các loại (gồm: 01 áo khoác màu trắng và 01 áo khoác màu xanh) của bị cáo .

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0007819 ngày 14/11/2023 giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 80/2023/HS-ST

Số hiệu:80/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về