Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 79/2023/HS-ST NGÀY 23/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận P, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ tên: Dương Minh T, tên gọi khác: không có; sinh ngày 24/9/1998 tại Thành phố H; địa chỉ thường trú: 12 Ngách I, Ngõ D, phố C, phường T, quận T, thành phố H; nơi cư trú: không có nơi cư trú nhât định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn M (chết) và bà Nguyễn Thu H; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt giữ từ ngày 08/7/2023, tạm giam từ ngày 14/7/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an quận P, Thành phố H (có mặt).

Bị hại:

1. Bà Đinh Thị Kim N, sinh năm 1993 Địa chỉ: 4 N, Phường I, quận P, Thành phố H (có đơn xin vắng mặt).

2. Ông Dương Ngọc D (chết năm 2020) Người đại diện hợp pháp của ông D:

- Bà Dương Mỹ N1, sinh năm 1984 (có đơn xin vắng mặt) - Bà Dương Lữ L, sinh năm 1987 (có đơn xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: 4 N, Phường E, quận P, Thành phố H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thu H, sinh năm 1973 Địa chỉ: 3 T, Phường A, quận G, Thành phố H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01/5/2018, Dương Minh T và Nguyễn Hồ Quốc K chơi game bắn cá tại số N T, Phường B, Quận A, Thành phố H. Sau đó, T rủ K uống cà phê và hỏi mượn tiền nhưng K nói không có tiền. T hỏi K có cách nào kiếm tiền thì K hỏi nhà T có dễ ra vào không nên T hiểu K muốn đi trộm cắp tài sản liền rủ K về nhà trọ của mình để xem xét tình hình.

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 02/5/2018, T cùng K về nhà số A Đ, Phường I, quận P rồi cả hai lên phòng trọ của T để K thay đồ. Đến 01 giờ 40 phút cùng ngày, cả hai xuống chỗ để xe tầng trệt của căn nhà, quan sát thấy có chiếc xe máy hiệu Attila Elizabet biển số 64H1-xxxxx của bà Đinh Thị Kim N và xe máy hiệu Wave Alpha biển số 53R8-xxxx của ông Dương Ngọc D có thể trộm được. K nói T đẩy xe máy Attila Elizabet biển số 64H1-xxxxx ra trước và đưa chìa khóa nhà. K dùng chìa khóa này mở được ổ khóa xe máy Wave Alpha biển số 53R8-xxxx, nổ máy xe điều khiển và dùng chân đẩy xe máy A do T điều khiển chạy đến tiệm game số N4 T, Phường A, Quận A để xe ở đây, rồi cả hai đợi đến sáng để đi làm chìa khóa xe máy Attila. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 02/5/2023, sau khi làm chìa khóa xong, cả hai mang xe máy Attila về lại tiệm game, K mang xe máy hiệu Wave đem bán được 2.000.000 đồng, mang tiền về chia cho T 1.000.000 đồng. Sau khi chơi game hết tiền, K mang xe máy Attila đem đi bán, còn T ở lại tiệm đợi nhưng không thấy K quay lại. Sau đó, nhận thấy hành vi của bản thân sai trái, T liên hệ bà N và ông D xin bồi thường thì hai người này đồng ý cho T thời hạn 01 tuần để tìm 02 chiếc xe nhưng T không tìm được. Ngày 09/5/2018, T bị công an P, quận P mời về trụ sở làm việc. Sau đó, T bỏ trốn sang Campuchia.

Ngày 22/9/2018, Cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã đối với Dương Minh T và Nguyễn Hồ Quốc K.

Ngày 21/12/2018, Cơ quan điều tra bắt được Nguyễn Hồ Quốc K. Tại bản án số 18/2019/HSST ngày 16/4/2019 của Tòà án nhân dân quận P đã xử phạt Nguyễn Hồ Quốc K 02 năm tù; buộc bị cáo K phải bồi thường cho bà Đinh Thị Kim N 10.000.000 đồng và ông Dương Ngọc D 5.000.000 đồng. Đến nay, K chưa thi hành án phần bồi thường thiệt hại cho bà N và ông D.

Đến ngày 08/7/2023, Dương Minh T bị bắt theo quyết định truy nã.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 25/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận P kết luận: Xe máy hiệu Attila Elizabet biển số 64H1-xxxxx có trị giá 10.000.000 đồng; xe máy hiệu Wave Alpha biển số 53R8-xxxx có trị giá 5.000.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, ngày 11/9/2023, bà Nguyễn Thu H, là mẹ ruột của Dương Minh T, đã nộp số tiền 15.000.000 đồng để khắc phục hậu quả vụ án.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKSPN ngày 20 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H đã truy tố bị cáo Dương Minh T về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Minh T đã trình bày lại toàn bộ nội dung vụ án và thừa nhận cùng với đồng phạm Nguyễn Hồ Quốc K thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy hiệu Attila Elizabet biển số 64H1-xxxxx của bà Đinh Thị Kim N và xe máy hiệu Wave Alpha biển số 53R8-xxxx của ông Dương Ngọc D vào ngày 02/5/2018 tại nhà số A Đ, Phường I, quận P, Thành phố H như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, bị cáo đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và tỏ thái độ ăn năn hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận P tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, xác định hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Dương Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung bản cáo trạng. Đồng thời, Đại diện Viện kiểm sát cũng đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định pháp luật xử phạt bị cáo Dương Minh T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; trả lại cho bà Nguyễn Thu H số tiền 15.000.000 đồng đã nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước quận P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận P, Kiểm sát viên đã tiến hành thu thập chứng cứ, tài liệu đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã giao nộp chứng cứ, tài liệu đúng trình tự, thủ tục quy định. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thể hiện nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp; các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định, bị cáo Dương Minh T cùng đồng phạm đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy hiệu Attila Elizabet biển số 64H1-xxxxx, trị giá 10.000.000 đồng của bà Đinh Thị Kim N và xe máy hiệu Wave Alpha biển số 53R8-xxxx, trị giá 5.000.000 đồng của ông Dương Ngọc D vào ngày 02/5/2018 tại nhà số A Đ, Phường I, quận P, Thành phố H. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 15.000.000 đồng. Bị cáo cùng đồng phạm đã chiếm đoạt được tài sản, mang tài sản đi bán lấy tiền tiêu xài, sau đó thì bị bắt giữ nên hành vi của bị cáo đã hoàn thành. Do đó, hành vi của bị cáo Dương Minh T thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét ý kiến của đại diện viện kiểm sát và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận P đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự công cộng, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn gây khó khăn trong quá trình điều tra vụ án nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; các bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét áp dụng các quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại bản án số 18/2019/HSST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân quận P đã buộc bị cáo Nguyễn Hồ Quốc K phải bồi thường cho bà Đinh Thị Kim N 10.000.000 đồng và bồi thường ông Dương Ngọc D 5.000.000 đồng nên phần trách nhiệm dân sự trong vụ án đã giải quyết xong. Tuy nhiên, đến nay bị cáo Nguyễn Hồ Quốc K chưa thực hiện bồi thường theo bản án. Ngày 10/11/2023, bà Nguyễn Thu H thay mặt bị cáo Dương Minh T thực hiện bồi thường cho bà Đinh Thị Kim N 10.000.000 đồng và ông Dương Ngọc D 5.000.000 đồng. Nay bà N và người đại diện hợp pháp của ông D không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì khác nên Tòa án không xét giải quyết.

[7] Về tang vật chứng của vụ án:

Ngày 11/9/2023, bà Nguyễn Thu H đã nộp số tiền 15.000.000 đồng vào tài khoản Kho bạc Nhà nước quận P để khắc phục hậu quả cho bị cáo Dương Minh T. Tuy nhiên, đến ngày 10/11/2023, bà Nguyễn Thu H đã trực tiếp bồi thường cho bà Đinh Thị Kim N 10.000.000 đồng và người đại diện hợp pháp của ông Dương Ngọc D 5.000.000 đồng. Nay bà Nguyễn Thu H yêu cầu được nhận lại số tiền 15.000.000 đồng đã nộp vào tài khoản Kho bạc Nhà nước nên xét trả lại số tiền trên cho bà H.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1.1. Tuyên bố bị cáo Dương Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1.2. Xử phạt: Dương Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/7/2023.

2. Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Trả lại cho bà Nguyễn Thu H số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) theo Giấy nộp tiền ngày 11/9/2023 do điều tra viên Bùi Lê H1 đã nộp vào tài khoản số 39490906177500000 của Kho bạc nhà nước quận P mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần C.

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Dương Minh T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2023/HS-ST

Số hiệu:79/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về