Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022, Thông báo mở lại phiên tòa số 21/2022/HSST-QĐ ngày 13 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Trung Đ, sinh ngày 29 tháng 11 năm 1980, tại Hải Phòng. Nơi ĐKKHTT và nơi cư trú: Thôn V, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Hoàng Trung T, con bà Lương Thị N; vợ: Vũ Thị T; có 03 con, tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 04/2013/HSPT ngày 10/01/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt Hoàng Trung Đ 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo (đã được xóa án tích); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/11/2021, đến ngày 11/11/2021 thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại: Ông Phạm Huy N, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Số nhà 01/27 đường 208, thôn A, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Vũ Đức T, chị Nguyễn Thị Kim D, bà Lê Thị Nguyệt N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 16/9/2021, Hoàng Trung Đ trên đường đi làm về đi qua nhà ông Phạm Huy N, sinh năm 1971; địa chỉ số 01/27/208 thôn An Dương, xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng phát hiện không có ai nên đã trèo tường vào lấy 04 giò cây hoa lan, 01 cây hoa hồng. Đ đem số hoa lấy được cất giấu tại nhà Vũ Văn T, sinh năm 1986, địa chỉ: Số 56/208 cùng thôn An Dương (bạn của Đ). Sau đó, Đ tiếp tục quay lại nhà ông N, trèo tường vào trong lấy 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Panasonic 32 inch rồi tiếp tục đem về cất dấu ở bếp nhà T. Ngày 20/9/2021, Đ cho chị Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1994, ở tổ 27, cụm 4, phường Đ Khê, Quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng (bạn của Đ và T) mượn chiếc ti vi trên để sử dụng.

Ngày 18/9/2021, ông N đã đến trình báo sự việc tại Công an xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng nội dung trong khoảng từ tháng 4/2021 đến tháng 9/2021, ông N bị trộm cắp một số cây cảnh và 01 ti vi nhãn hiệu Panasonic màu đen 32 inch, tổng trị giá khoảng 35.000.000đồng. Ông N đã giao nộp 01 USB lưu giữ liệu camera, qua giám định xác định trong khoảng thời gian từ 23 giờ 43 phút ngày 16/9/2021 đến 00 giờ 07 phút ngày 17/9/2021 có hình ảnh một đối tượng lấy ti vi và cây từ nhà ông N đi ra ngoài.

Ngày 02/11/2021, Hoàng Trung Đ ra đầu thú tại Công an xã An Đồng khai nhận vào đêm ngày 16/9/2021 đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhà ông N và giao nộp: 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Panasonic 32 inch màu đen qua định giá có trị giá 1.200.000đồng; 01 giò lan gồm 01 cây lan đuôi cáo cùng 01 cây lan trầm, cây không hoa trồng trong chậu gỗ’ 01 giò lan gồm 02 thân lan cùng 02 cây lan nhỏ được trồng trong chậu gỗ không có hoa; 01 giò lan gồm 01 cây lan phi điệp thuộc loại phi điệp bình dân (bờ rào), cây chưa có hoa đang phát triển trong chậu gỗ; 01 giò hoa lan gồm 02 nhánh lan hiều nhỏ cùng 01 cây lan phi điệp bình dân, cây không có hoa (qua định giá 04 giờ lan có trị giá 500.000đồng); 01 cây hoa hồng có đường kính 2,5cm, cây 01 thân, thoát thân 60cm, có tán rộng và cao 1,6m, là loại hồng tỉ muội (qua định giá có giá trị 500.000đồng). Tổng trị giá tài sản Đ trộm cắp là: 2.200.000đồng.

Quá trình điều tra bổ sung, bị hại là ông Phạm Huy N có giao nộp 01 USB lưu giữ dữ liệu camera do ông N lưu lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, xác định trong khoảng thời gian từ 23 giờ 43 phút ngày 16/9/2021 đến 00 giờ 07 phút ngày 17/9/2021 có hình ảnh 01 đối tượng mang vác ti vi và cây từ nhà của ông N ra. Ngoài ra, không có đối tượng nào khác.

Bản Cáo trạng số 67/CT-VKSAD ngày 19/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Hoàng Trung Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đ khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 16/9/2021, bị cáo đi bộ vào thôn A, xã A, huyện An Dương mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà ông Phạm Huy N thấy không có người trông coi bị cáo trèo tường bao vào trong nhà ông N lấy 04 giò lan, 01 cây hoa hồng, 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Panasonic mang về nhà T cất giấu như nội dung bản Cáo trạng truy tố đã nêu. Bị cáo xác định số tài sản Cơ quan công an thu giữ là do một mình bị cáo chiếm đoạt của nhà ông N, không có ai tham gia cùng với bị cáo. Hành vi của bị cáo vi phạm pháp luật việc điều tra, truy tố, xét xử bị cáo là đúng pháp luật. Ngoài số tài sản trên bị cáo không chiếm đoạt tài sản nào khác của ông N. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Tại phiên tòa người bị hại Phạm Huy N có quan điểm: Đề nghị Hồng đồng xét xử làm rõ thời gian bị cáo Đ vào nhà ông N chiếm đoạt tài sản, xem xét ngoài bị cáo Đ còn có đồng phạm khác tham gia vào lấy tài sản nhà ông N không.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Trung Đ từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Quá trình điều tra bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra đã vi phạm thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, tiếp nhận nguồn tin tội phạm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Đối với các hành vi, quyết định khác của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, phù hợp với Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận bị cáo Hoàng Trung Đ đã có hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Phạm Huy N ở thôn A, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Theo Kết luận định giá tài sản xác định: Giá trị 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Panasonic 32 inch màu đen đã qua sử dụng là 1.200.000đồng; 04 giò lan có giá trị: 500.000đồng; 01 cây hoa hồng có giá trị: 500.000đồng. Tổng trị giá tài sản bị cáo Đ chiếm đoạt của nhà ông N là 2.200.000đồng. Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Đ về tội Trộm cắp tài sản là có căn cứ. Như vậy, hành vi của bị cáo Hoàng Trung Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản ” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Tại phiên tòa ông N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ngoài bị cáo Đ còn có đồng phạm khác tham gia vào vụ án không, thời gian bị cáo vào thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông N. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra bổ sung ông Phạm Huy N có giao nộp 01 USB lưu giữ dữ liệu camera do ông N lưu lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, xác định trong khoảng thời gian từ 23 giờ 43 phút ngày 16/9/2021 đến 00 giờ 07 phút ngày 17/9/2021 có hình ảnh 01 đối tượng mang vác ti vi và cây từ nhà của ông N ra. Ngoài ra, không có đối tượng nào khác. Đoạn vi deo ông N cung cấp phù hợp với lời khai nhận của bị cáo. Ngoài lời trình bày ông N không cung cấp thêm được chứng cứ nào khác.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo Đ quan điểm của bị hại tại phiên tòa không có cơ sở xác định vụ án có đồng phạm.

[4] Tính chất vụ án là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây dư luận xấu ở địa phương. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là ngưởi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt một mức án cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên về nhân thân bị cáo có 01 tiền án Bản án số 04/2013/HSPT ngày 10/01/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt Hoàng Trung Đ 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo. Tính đến ngày phạm tội lần này tiền án đã được xóa án tích. Do vậy, bị cáo là người có nhân thân xấu.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có quan điểm đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác:

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 50.000.000đồng để sung vào ngân sách Nhà nước. Xét tính chất, mức độ tội phạm của bị cáo, bản thân bị cáo thu nhập không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Huy N đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra có thu giữ số tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của ông Phạm Huy N. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương đã trả lại 01 chiếc ti vi nhãn hiệu Panasonic 32 inch màu đen; 04 giò lan; 01 cây hoa hồng cho ông Phạm Huy N là chủ sở hữu quản lý.

[10] Đối với Vũ Đức T, khi bị cáo Đ mang tài sản trộm cắp từ nhà ông N về cất giấu tại nhà T, Nguyễn Thị Kim D là người được bị cáo Đ cho mượn chiếc tivi Panasonic về để sử dụng. Cả T và Dung đều không biết nguồn gốc tài sản là do bị cáo trộm cắp mà có, nên không đủ căn cứ để xử lý đối với T, Dung theo quy định của pháp luật.

[11] Số tài sản còn lại ông Phạm Huy N trình báo bị mất trộm từ tháng 4/2021 đến tháng 9/2021 bao gồm: 01 cây hoa mai, 10 giỏ hoa lan, 13 cây hoa hồng, hiện chưa thu hồi được, Đ không thừa nhận đã lấy số tài sản này. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[13] Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương nghiêm túc rút kinh nghiệm trong việc tiếp nhận nguồn tin tội phạm, thu thập chứng cứ trong quá trình điều tra vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Hoàng Trung Đ 15 (mười lăm) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án. Được trừ thời hạn bị tạm giữ từ ngày 02/11/2021 đến ngày 11/11/2021.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Hoàng Trung Đ.

Tiếp tục áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Hoàng Trung Đ đến thời điểm đi chấp hành án. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú của bị cáo không được quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành phạt tù.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Hoàng Trung Đ phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST

Số hiệu:79/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về