TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 41/2022/QĐXXST-HS ngày 20/7/2022 đối với bị cáo:
Phạm Văn L, sinh năm 2002; nơi sinh: Đà Nẵng; nơi đăng ký thường trú: thôn T, xã H, quận L, thành phố Đà Nẵng; nơi cư trú hiện nay: khu phố N, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23/5/2022 cho đến nay. (có mặt)
- Bị hại: bà Đào Thị Trúc H – sinh năm 1990. (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố N, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ ông Nguyễn Quang K – sinh năm 1983. (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố N, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
+ ông Vũ Văn Đ - sinh năm 1966. (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố N, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
+ ông Đào Văn Q – sinh năm 1962. (có mặt) Địa chỉ: khu phố Nam T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
+ chị Phạm Thị Tuyết N – sinh năm 2003. (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố N, thị trấn T, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.
+ ông Nguyễn Văn H– sinh năm 1978. (vắng mặt) Địa chỉ: thôn Minh T, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 07/12/2021, La Văn T và Phạm Văn L đi chơi nên T mượn xe gắn máy biển kiểm soát 86AE – 012.43 của chị Phạm Thị Tuyết N để chở L về nhà. Trên đường đi, T rủ Lđi trộm cắp tài sản (dây điện chong đèn thanh long) bán lấy tiền tiêu xài thì L đồng ý, T điều khiển xe gắn máy 86AE – 012.43 chở L ngồi sau, lưu thông trên đường đập hồ Tân Lập. Đến khoảng 01 giờ ngày 08/12/2021 thì cả hai phát hiện tại vườn thanh long nhà bà Đào Thị Trúc H đang treo dây điện trên các trụ thanh long (để chong đèn thanh long), loại dây Thipha Cable Vcmd (2x32/0,2)-0,6/1Kv trên các trụ thanh long nhưng không thấy chong đèn và không có người trông coi nên T và L đột nhập vào vườn thanh long này, Tdùng cây kìm cộng lực cắt đầu nối dây điện, L dùng tay tháo gỡ các đoạn dây điện có gắn chuôi và bòng đèn bỏ lại tại vườn. Sau đó, L và T cuộn dây điện có đặc điểm nêu trên bỏ vào bao. Sau khi lấy trộm xong, L điều khiển xe gắn máy 86AE – 012.43 chở T và tài sản trộm cắp được đi bán, khi cả 02 đang đi trên đường Quốc lộ 1A thuộc Km24 ở thôn Minh Hòa, xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam thì bị Công an xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam tuần tra phát hiện có nhiều biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện trong bao có đựng 904m dây điện nên đã đưa T và L cùng đồ vật, phương tiện về trụ sở làm việc. Qua làm việc T và L khai nhận số dây điện trên là tài sản trộm cắp được tài vườn thanh long của bà Đào Thị Trúc H và đang trên đường mang đi tiêu thụ.
Kết luận định giá tài sản số 01/2022-HĐĐG ngày 13/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm Thuận Nam kết luận: Dây điện Thipha Cable màu xanh (904m) có giá trị là 2.621.600 (Hai triệu sáu trăm hai mươi mốt ngàn sáu trăm) đồng.
Ngoài ra, quá trình điều tra Phạm Văn L và La Văn T còn khai nhận đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể: trộm cắp 500m dây điện loại 2x32 không rõ nhãn hiệu có giá trị 1.680.000 đồng là tài sản của ông Đào Văn Qvào đêm ngày 21/11/2021 và rạng sáng ngày 22/11/2021 tại khu phố Nam Thành, thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; trộm cắp 300m đây điện loại 2x32 nhãn hiệu Thành Công có giá trị 1.197.000 đồng là tài sản của ông Vũ Văn Đ vào đêm ngày 24/11/2021 rạng sáng ngày 25/11/2021 tại thôn Lập Đức, xã Tân Lập, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; trộm cắp 600m dây điện loại VSC vcmd 2x32 có giá trị 1.813.500 đồng là tài sản của ông Nguyễn Quang K vào đêm ngày 28/11/2021 rạng sáng ngày 29/11/2021tại khu phố Nam Tân, thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Tiền bán các tài sản trộm cắp nêu trên L và T đã cùng nhau tiêu xài hết. Xét thấy 03 vụ trộm này tài sản bị chiếm đoạt về giá trị không thỏa mãn dấu hiệu của tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự, nên Công an huyện Hàm Thuận Nam đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Văn L về hành vi trộm cắp tài sản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định số 144/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ với số tiền 2.500.000 đồng. Bị can La Văn T bỏ trốn nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam đã ra quyết định truy nã nhưng đến nay chưa bắt được.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ được gồm: 904m dây điện loại Thipha Cable Vcmd (2x32/0,2)-0,6/1Kv màu xanh là tài sản Phạm Văn Lợi và La Văn Thơ trộm cắp của bà Đào Thị Trúc H; 01 xe gắn máy biển kiểm soát 86AE- 012.43 màu đen của chị Phạm Thị Tuyết N. Tuy nhiên, đối với 904m dây điện loại Thipha Cable Vcmd (2x32/0,2)-0,6/1Kv màu xanh, ngày 16/01/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là bà Đào Thị Trúc H; đối với 01 xe gắn máy biển kiểm soát 86AE-012.43 màu đen là tài sản của chị Phạm Thị Tuyết N, T mượn để sử dụng để đi trộm cắp tài sản nhưng chị N không biết nên ngày 16/01/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra trả lại cho chị N.
Về trách nhiệm dân sự: quá trình điều tra La Văn T và Phạm Văn L đã tự nguyện bồi thường như sau: bồi thường cho bà Đào Thị Trúc H số tiền 1.500.000 đồng, bồi thường cho ông Đào Văn Q số tiền 1.680.000 đồng; bồi thường cho ông Vũ Văn Đ số tiền 1.197.000 đồng và bồi thường cho ông Nguyễn Quang K số tiền là 1.813.500 đồng. Những người này đã nhận đủ tiền và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại Cáo trạng số 45/CT-VKSHTN-HS ngày 27/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam truy tố Phạm Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” và xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Về xử lý vật chứng:
cơ quan điều tra đã xử lý xong nên đề nghị không đề cập xử lý. Về trách nhiệm dân sự: bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản, nhận tiền bồi thường xong và không yêu cầu gì nên đề nghị không xem xét.
Bị cáo Phạm Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi như đã khai tại Cơ quan điều tra và như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố; trong phần trình bày lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án không khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Bị hại Đào Thị Trúc H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Quang K, Vũ Văn Đ, Phạm Thị Tuyết N đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, họ đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, đã được bồi thường thiệt hại, không có yêu cầu gì khác và đồng thời đã có lời khai đầy đủ thể hiện tại hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung vụ án, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở để kết luận: lợi dụng sơ hở của bị hại Đào Thị Trúc H nên vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 07/12/2021 tại vườn thanh long của bị hại ở thôn Lập Đức, xã Tân Lập, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, Phạm Văn L cùng La Văn T lén lút chiếm đoạt 904m dây điện loại Thipha Cable Vcmd (2x32/0,2)-0,6/1Kv màu xanh có giá trị 2.621.600 đồng. Hành vi của bị cáo Phạm Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam truy tố Phạm Văn L với tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Đây là vụ án có đồng phạm mang tính chất giản đơn, trong đó Phạm Văn L và La Văn T đều là người thực hành tích cực.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý trực tiếp, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế ở địa phương; bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe nhưng không chịu lao động chân chính mà lợi dụng sơ hở của bị hại để lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.621.600 đồng; ngoài vụ án này, bị cáo cùng với bị can La Văn T còn thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản khác nhưng giá trị tài sản đều dưới 2.000.000 đồng nên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Phạm Văn L để bị cáo được giáo dục, cải tạo thành một công dân tốt.
[4] Bị cáo không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, cụ thể: bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại Đào Thị Trúc H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam đã trả lại tài sản cho bà Đào Thị Trúc H và chị Phạm Thị Tuyết N như đã nêu tại phần nội dung vụ án là đúng pháp luật.
[7] Ngoài vụ án này, bị cáo L và bị can La Văn T còn thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản khác như thể hiện tại nội dung vụ án, xét thấy không đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự nên Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam đã xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo Phạm Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
[9] Bị can La Văn T bỏ trốn chưa bắt được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện hàm Thuận Nam đã có quyết định tách vụ án để tiếp tục truy bắt, xử lý sau là phù hợp với quy định tại Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự.
[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: bị cáo Phạm Văn L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.
3. Án phí: căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Phạm Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: những người có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST
Số hiệu: | 79/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về