Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 145/2021/TLST-HS ngày 20/7/2021, theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số 212/2021/QĐXXST-HS ngày 20/8/2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 15/2022/TB-TA ngày 04/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1999, tại tỉnh An Giang; Nơi ĐKHKTT: Ấp Bình H, xã Bình M, huyện Châu P, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc  (chết) và bà Lê Thị Thu V; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ ngày 18/02/2021 đến ngày 23/02/2021 được trả tự do, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Vắng mặt.

B hại: Công ty TNHH MTV Dịch vụ Bảo vệ Lê L; địa chỉ: A, khu B, ấp Thanh H, xã Hố N, huyện Trảng B, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Lê Văn T, chức vụ: Chủ tịch công ty kiêm Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH MTV Dịch vụ Bảo vệ Lê L. Vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Chị Danh Thị Mỹ N, sinh năm 1969; địa chỉ: Khu vực A, phường Trung N, quận Thốt N, thành phố Cần Thơ. Vắng mặt

2/ Bà Lê Thị Thu V, sinh năm 1970; địa chỉ: Ấp A, xã Bình Th, huyện Châu P, tỉnh An Giang, Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc S là nhân viên bảo vệ tại Công ty TNHH Wun T, thuộc Khu Công nghiệp Kim Huy, địa chỉ phường Hòa Phú, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Vào khoảng 18 giờ 00 ngày 16/02/2021, trong lúc Nguyễn Ngọc S đang gác bảo vệ tại chòi gác phía sau của Công ty Wun T thì chủ nhà nghỉ Gia Linh (chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) tại phường Thuận G, thành phố Thuận A, tỉnh Bình Dương điện thoại cho S và yêu cầu S trả tiền thuê phòng. Lúc này, do không có tiền trả cho chủ nhà nghỉ nên S nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của Công ty Wun T đem đi cầm cố để lấy tiền trả cho chủ nhà nghỉ. Thực hiện ý định trên, S từ chòi gác đi bộ đến khu vực bãi giữ xe của công ty và tại đây S nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias, màu trắng - đỏ, biển số 65F 1-047.91 của chị Danh Thị Mỹ N đang dựng trong bãi xe và xung quanh vắng người nên S đi lại đẩy chiếc xe mô tô biển số 65F 1-047.91 ra khỏi khu vực bãi giữ xe và đem ra khỏi công ty. Sau khi lấy trộm được xe mô tô của chị N, S đẩy xe đi đến một tiệm sửa xe (không rõ tên hiệu) ở cạnh đường gần công ty rồi s mới lấy tua vít tháo mặt nạ xe và bứt nguồn dây điện xe mô tô. Sau khi bứt nguồn dây điện, S leo lên xe nổ máy chạy về nhà nghỉ Gia Linh gặp một người đàn ông tên T (chua xác định rõ nhân thân, lai lịch) để thế chấp chiếc xe mô tô biển số 65F 1-047.91 cho T lấy số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng và s đã tiêu xài hết số tiền trên. Đến khoảng 22 giờ 30 phút ngày 17/02/2021, được gia đình vận động nên Nguyễn Ngọc s đã đến Đồn Công an Khu Công nghiệp Kim Huy đầu thú và thừa nhận toàn bộ hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô biển số 65F 1-047.91 của chị Danh Thị Mỹ N. Ngày 18/02/2021, Đồn Công an Khu Công nghiệp Kim Huy đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cùng đối tượng Nguyễn Ngọc S đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 18/02/2021, bà Lê Thị Thu V là mẹ ruột của Nguyễn Ngọc S đã chuộc lại xe mô tô biển số 65F 1-047.91 từ đối tượng tên T với số tiền là 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng và giao nộp lại xe mô tô cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T. Hiện tại, bà Vân không yêu cầu S phải trả lại số tiền trên nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 74/KLTS-TTHS ngày 12/3/2021 của Hội đồng định giá thường xuyên trong Tố tụng hình sự thành phố T kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias, màu trắng - đỏ, biển số 65F1-047.91, số máy 44S1057126, số khung 4S10BY057144, trị giá 10.000.000 (Mười triệu) đồng.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias, màu trắng - đỏ, biển so 65F1- 047.91, quá trình điều tra xác định xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu của chị Danh Thị Mỹ N, nhưng tại thời điểm bị chiếm đoạt xe mô tô đang thuộc quyền quản lý của Công ty TNHH MTV Dịch vụ Bảo vệ Lê L là đơn vị được Công ty TNHH Wun T thuê làm dịch vụ giữ xe cho Công ty Wun T. Do đó, ngày 09/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 65 là giao trả xe mô tô biển số 65F1-047.91 cho Công ty Lê L. Cùng ngày 09/3/2021, Công ty Lê L đã giao trả lại chiếc xe trên cho chị N. Hiện tại, chị N không yêu cầu gì đối với S.

Đối với đối tượng nam tên T là người đã cầm cố xe mô tô biển số 65F 1-047.91 cho Nguyễn Ngọc S, do quá trình xác minh và điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T chưa xác định rõ được họ tên và địa chỉ cư trú cụ thể của đối tượng này nên sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và đề cập xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 147/CT-VKS-HS ngày 13/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc s về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc s mức hình phạt từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

Quá trình điều tra và truy tố, bị cáo Nguyễn Ngọc s đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án, ngày 06/12/2021, Tòa án nhân dân thành phố T đã ra quyết định bắt, tạm giam số 10/2021/HSST-QĐBTG đối với Nguyễn Ngọc S nhưng bị cáo bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Ngày 25/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố T ban hành Quyết định số 04/QĐ-CSĐT-ĐTTH truy nã bị cáo S. Ngày 04/4/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố T có thông báo số 397/TB- CSĐT-ĐTTH gửi đến Tòa án về việc xác định chưa bắt được bị cáo S. Căn cứ quy định tại các điểm a, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo Nguyễn Ngọc S.

[3] Trong biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú ngày 17/02/2021 (Bút lục 10-11); các bản tự khai ngày 18/02/2021 (Bút lục 121), ngày 23/02/2021 (Bút lục 124), ngày 24/02/2021 (Bút lục 127); các biên bản ghi lời khai ngày 18/02/2021 (Bút lục 12-13; Bút lục 122-123), ngày 23/02/2021 (Bút lục 125-126); các biên bản hỏi cung bị can ngày 24/02/2021 (Bút lục 128-129), ngày 15/03/2021 (Bút lục 130-131), ngày 18/6/2021 (Bút lục 132-133)... bị cáo Nguyễn Ngọc S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo trước Tòa án. Lời nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 00 ngày 16/02/2021, tại khu vực bãi giữ xe của Công ty TNHH Wun T, thuộc Khu Công nghiệp Kim H, địa chỉ phường Hòa p, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Ngọc S đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias, màu trắng - đỏ, biển số 65F1-047.91, số máy 44S1057126, số khung 4S10BY057144, trị giá 10.000.000 (Mười triệu) đồng của chị Danh Thị Mỹ N và hiện đang trong sự quản lý của Công ty TNHH MTV Dịch vụ Bảo vệ Lê L. Hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nhu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, gây mất trật tụ, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đến cơ quan điều tra đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ các Điều 136, 260, 290, 331,333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ bắt bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 18/02/2021 đến ngày 23/02/2021.

2/ Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

3/ Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST

Số hiệu:79/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về