Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2022/TLST-HS ngày 16/02/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Hữu P; Tên gọi khác: B; Sinh ngày 06/7/1995, tại tỉnh T; Nơi cư trú: Tổ dân phố Tây Trì Nh, phường P, thành phố H (huyện P cũ), tỉnh T; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông Lê Hữu Ph, sinh năm 1966; con bà Nguyễn Thị Mi M, sinh năm 1969; Anh em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Sống như vợ chồng với chị Đỗ Thị Thu H, sinh năm 1993; Con: Lê Hữu Đ, sinh năm 2017, hiện sinh sống cùng bị cáo.

* Quá trình nhân thân: Nhỏ ở với gia đình, học lớp 09/12 nghỉ, sau đó phụ giúp gia đình cho đến ngày phạm tội.

Tiền sự, tiền án: Không.

Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

Bị hại: Anh Trần Văn L; địa chỉ: Tổ 5, Tổ dân phố Tây Trì Nh, phường P, thành phố H, tỉnh T. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đắc H; Địa chỉ: 16 Phan A, phường A, thành phố H, tỉnh T. Có mặt.

Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị Vui; địa chỉ: 500 Chi L, phường P, thành phố H, tỉnh T. Vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Mi M; địa chỉ: Tổ dân phố Tây Trì Nh, phường P, thành phố H, tỉnh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có quen biết từ trước và biết anh Trần Văn L có nuôi chó, mèo cảnh nên Lê Hữu P nảy sinh ý định bắt trộm.

Thực hiện ý định trên, vào khoảng 03 giờ ngày 15/10/2021, P leo hàng rào đột nhập qua cửa chính tầng 02 (cửa không khóa) bắt trộm một con chó giống Poodle, lông xoăn, màu nâu đỏ. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, P mang con chó bắt trộm được đến gửi tại cửa hàng mua bán chó cảnh “Hiếu Spa” của anh Nguyễn Đắc H để nhờ nuôi giúp (P nói với anh H là chó của mình). Khoảng 07 ngày sau, P đến gặp anh H và bán con chó trên cho anh Hiếu với số tiền 2.200.000 đồng, P tiêu xài hết số tiền này.

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 21/10/2021, bằng phương thức cũ, Lê Hữu P tiếp tục đột nhập vào tầng 2 nhà anh L lấy trộm 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, bên trong có sim số: 0364088411. Khi mang điện thoại lấy trộm được về nhà mình, P rà tìm được mật khẩu máy và phát hiện bên trong điện thoại có ứng dụng chuyển tiền “Ví điện tử MMO” nên P đăng nhập và chuyển trộm số tiền 2.000.000 đồng đến “Ví điện tử MMO” của bạn gái P là chị Nguyễn Thị V. Sau đó, P tìm gặp chị Vui và mượn điện thoại di động thực hiện lệnh chuyển số tiền 2.000.000 đồng đến số tài khoản 1014932551 mang tên chị V mở tại ngân hàng Vietcombank. P tiếp tục mượn thẻ ATM của chị V để rút số tiền 2.000.000 đồng chiếm đoạt được để sử dụng cá nhân.

P tiếp tục nảy sinh ý định tiếp tục chiếm đoạt tiền trong “Ví điện tử MMO” của anh L nên tiếp tục đăng nhập vào “Ví điện tử MMO” từ điện thoại lấy trộm được của anh L nhưng không đăng nhập được. P nghĩ rằng sau khi mất điện thoại nên anh L đã phục hồi lại sim số mới nên sim số trong điện thoại P đã bị vô hiệu hóa nên P nảy sinh ý định tiếp tục đột nhập nhà anh L để lấy trộm điện thoại và sim số 0364088411.

Khoảng 01 giờ ngày 25/10/2021, bằng phương thức cũ, Lê Hữu P tiếp tục đột nhập vào tầng 02 nhà anh L lấy trộm 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus màu vàng bên trong có sim số 0364088411. Sau khi lấy trộm được điện thoại, P mang về nhà của mình tháo lấy sim và lắp vào điện thoại lấy trộm trước đó của anh L và đăng nhập được vào “Ví điện tử MMO” ; P chuyển số tiền 1.980.000 đồng từ “Ví điện tử MMO” của anh L đến “Ví điện tử MMO” của mẹ mình là bà Nguyễn Thị Mi M, đồng thời tiếp tục chuyển 20.000 đồng để mua thẻ điện thoại nộp vào số điện thoại của bà Mi M là số 0775520454. Sau đó, P đột nhập vào nhà anh L để trả điện thoại đã lấy trộm.

Khi về đến nhà, P phát hiện đã lắp nhầm sim số điện thoại của mình đang sử dụng vào điện thoại đã trả lại cho anh Long nên P tiếp tục đột nhập vào nhà của anh L để tráo lại sim điện thoại thì nghe tiếng cho sủa, sợ bị phát hiện nên P vứt bỏ sim số của mình tại nhà của anh L và tẩu thoát.

Anh L phát hiện sim số điện thoại không phải của mình và kiểm tra “Ví điện tử MMO” thì phát hiện tiền bị mất nên trình báo Cơ quan Công an.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 265 ngày 04/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H kết luận: 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng, đã qua sử dụng, có số Imei: 354388061657533, có giá trị 1.700.000 đồng; 01 con chó cảnh thuộc giống chó Poodle lông xoăn, màu nâu đỏ, nặng 1,9kg, có giá trị 3.000.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 321 ngày 30/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H kết luận: 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng, đã qua sử dụng, có số Imei: 355378070795423, có giá trị 1.700.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

* Vật chứng tạm giữ:

- Số tiền: 2.000.000 đồng;

- 01 con chó giống chó Poodle lông xoăn, màu nâu đỏ;

- 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng có số Imei: 354388061657533;

01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng, có số Imei: 355378070795423; 01 sim điện thoại có dòng chữ 4G Viettel và dãy số: 8984048000337449265; 01 sim điện thoại có dòng chữ 4G Viettel và dãy số: 8984048000303931992.

- 03 ảnh chụp màn hình điện thoại được in trên 03 tờ giấy A4 thể hiện lịch sử chuyển tiền số tiền 2.000.000 đồng từ “Ví điện tử MMO” của anh Trần Văn L đến “Ví điện tử MMO” của chị Nguyễn Thị V vào ngày 21/10/2021; 01 bản sao kê ngân hàng Vietcombank có tên chủ tài khoản là chị Nguyễn Thị V, số tài khoản là:

1014932551, trong đó có nội dung thể hiện vào ngày 21/10/2021: Nhận số tiền 1.980.000 đồng từ “CHUYEN KHOAN MMO” và rút số tiền 2.001.100 đồng vào ngày 21/10/2021. Tài liệu này do chị Nguyễn Thị V giao nộp.

- 01 ảnh chụp màn hình điện thoại được in trên 01 tờ giấy A4 thể hiện lịch sử chuyển tiền số tiền 1.980.000 đồng từ “Ví điện tử MMO” của anh Trần Văn L đến “Ví điện tử MMO” của bà Nguyễn Thị Mi M vào ngày 25/10/2021; 01 bản sao kê ngân hàng Vietcombank có tên chủ tài khoản là chị Nguyễn Thị Mi M, số tài khoản là: 0161001699990, trong đó có nội dung thể hiện vào ngày 27/10/2021 nhận số tiền 1.980.000 đồng từ “MMO”. Vật chứng này do bà Nguyễn Thị Mi i giao nộp.

- 05 ảnh chụp màn hình điện thoại được in trên 05 tờ giấy A4 thể hiện lịch sử chuyển tiền số tiền từ “Ví điện tử MMO” của anh Trần Văn L như sau:

+ Ngày 21/10/2021 chuyển số tiền 2.000.000 đồng đến Nguyễn Thị V;

+ Ngày 25/10/2021 mua 01 mã thẻ Mobiphone với số tiền 20.000 đồng;

chuyển số tiền 1.980.000 đồng đến Nguyễn Thị Mi M.

Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan CSĐT đã trả lại 01 con chó giống chó Poodle lông xoăn, màu nâu đỏ; 02 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng; 01 sim điện thoại có dòng chữ 4G Viettel và dãy số: 8984048000337449265; 01 sim điện thoại có dòng chữ 4G Viettel và dãy số: 8984048000303931992, số tiền 2.000.000 đồng cho chủ sở hữu.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Anh Trần Văn L yêu cầu bị cáo Lê Hữu P bồi thường về dân sự với số tiền 2.000.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Anh Nguyễn Đắc H yêu cầu bồi thường về dân sự với số tiền 2.200.000 đồng.

Hiện bị cáo Lê Hữu P đã bồi thường đầy đủ số tiền nêu trên.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Lê Hữu P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, công nhận việc khởi tố của Cơ quan điều tra và truy tố của Viện kiểm sát là đúng với hành vi của bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 09 tháng 02 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế truy tố Lê Hữu P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Hữu P (B) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Lê Hữu P từ 06 đến 08 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại. Sau khi nhận lại tài sản, bị hại Trần Văn L không có yêu cầu gì thêm.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Văn L yêu cầu bị cáo Lê Hữu P bồi thường về dân sự với số tiền 2.000.000 đồng; Anh Nguyễn Đắc H yêu cầu bồi thường về dân sự với số tiền 2.200.000 đồng. Bị cáo Lê Hữu P đã bồi thường đầy đủ số tiền nêu trên.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận điều tra và bản cáo trạng nên các hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở xác định: Từ ngày 15/10/2021 đến ngày 25/10/2021, tại Tổ dân phố Tây Trì Nh, phường P, thành phố H, tỉnh T; Lê Hữu P đã có hành vi 03 lần lấy trộm tài sản của anh Trần Văn L với tổng giá trị 10.400.000đ, cụ thể:

- Ngày 15/10/2021 lấy trộm một con chó cảnh giống chó Poodle, lông xoăn, màu nâu đỏ, nặng 1,9 kg có giá trị 3.000.000 đồng.

- Ngày 21/10/2021, lấy trộm 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, có giá trị 1.700.000 đồng; lấy trộm số tiền 2.000.000 đồng từ “Ví điện tử MMO”.

- Ngày 25/10/2021, lấy trộm 01 điện thoại hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, có giá trị 1.700.000 đồng; lấy trộm số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) từ “Ví điện tử MMO”.

Với những hành vi trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo về tội: Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Bị cáo Lê Hữu P là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Thế nhưng do động cơ tham lam, vụ lợi nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần phải xử lý bị cáo bằng một hình phạt nghiêm nhằm để giáo dục bị cáo và ngăn ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt; bị cáo phạm vào tình tiết phạm tội hai lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, gia đình có công với cách mạng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại các tài sản trên cho chủ sở hữu. Sau khi nhận lại tài sản, các chủ sở hữu không có ý kiến gì. Nên Hội đồng xét xử không xem xét. Tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án các vật chứng do chị Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị Mi M và anh Trần Văn L giao nộp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Tuyên bố: Bị cáo Lê Hữu P (B) phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu P 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án các vật chứng do chị Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị Mi M và anh Trần Văn L giao nộp.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc các bị cáo Lê Hữu P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xét xử công khai, báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2022/HS-ST

Số hiệu:79/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về