TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 79/2021/HS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố T, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66 /2021/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39 ngày 13 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
Lê Thị T, sinh năm 1987; Giới tính: Nữ; Nơi ĐKHKTT: Số nhà 149B L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; bố Lê Sỹ L ( đã chết); mẹ Lê Thị X chồng Ngô Hoàng T ( đã ly hôn) có 1 con sinh năm 2008; Tiền án: Ngày 18/5/2017 bị Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “ Trộm cắp tài sản” ( Ngày18/11/2019 chấp hành xong hình phạt tù); Ngày 23/11/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố T tuyên phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 18/9/2006 Bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 20/11/2006 công an phường T1, thành phố T ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/7/2018 công an phường Đông Hương thành phố Thanh Hóa ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “ Đánh bạc”. Bị cáo hiện đang chấp hành án phạt tù tại trại giam Thanh Phong theo bản án số 38/HSST ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Hoàng Thị T1 - sinh năm 1981 Địa chỉ: Phố T, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. ( vắng mặt).
-Người làm chứng: Chị Trần Thị T2, sinh năm 1985 Địa chỉ: Số nhà 54 đường V, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa ( vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17h00’ngày 08/10/2021, Lê Thị T đến Ki ốt bán quần áo số 71 thuộc chợ Đ, phường Đ1, thành phố T của chị Hoàng Thị T1 để mua quần áo. Lê Thị T hỏi mua quần đùi thì được chị Hoàng Thị T1 hướng dẫn tại dãy treo quần đùi để tự chọn vì lúc này chị Hoàng Thị T1 đang bận bán hàng cho một khách hàng cách đó khoảng 2 đến 3m. Tại đây, Lê Thị T phát hiện thấy cạnh chỗ mình đứng có 01 chiếc túi xách màu đen đựng tiền trong tủ kính, Lê Thị T quan sát thấy Hoàng Thị T1 đang mãi bán hàng cho khách không chú ý, xung quanh không có người nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. Lê Thị T đã lén lút tiến lại gần mở tủ và dùng tay lấy chiếc túi xách ra khỏi tủ. Chị Hoàng Thị T1 quay lại nhìn thấy cánh cửa tủ bị mở và trên tay Lê Thị T đang cầm chiếc túi xách của mình nên lại gần hỏi “ Tại sao chị lại lấy túi xách của tôi” thì Lê Thị T thả ngay chiếc túi xách xuống dưới chân. Chị Hoàng Thị T đã hô hoán mọi người đến, đồng thời kiểm tra bên trong túi xác định được tổng số tiền trong túi là 8.980.000đ.
Ngày 15/11/2021 cơ quan điều tra Công an thành phố T đã trưng cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh T giám định số tiền nêu trên. Tại công văn số 1159/TTKQ-HC về việc giám định tiền Việt Nam đồng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh T được xác định số tiền yêu cầu giám định là tiền thật do Ngân hàng Nhà nước phát hành.
Đối với 01 túi xách màu đen có dây đeo bằng kim loại, kích thước 10 x 15 x 25cm do Hoàng Thị T không yêu cầu nên cơ quan điều tra không định giá tài sản.
Về vật chứng: Số tiền 8.980.000đ và 01 chiếc túi xách có dây đeo bằng kim loại, cơ quan điều tra Công an thành phố T đã trả lại tài sản cho chị Hoàng Thị T1, chị T1 nhận đủ và không yêu cầu gì khác.
Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSTPTH ngày 12 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T, tỉnh Thanh Hoá truy tố Lê Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố T, tỉnh Thanh Hoá luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 38 của BLHS đề nghị xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù. Tổng hợp với 15 tháng tù của bản án số 38/HSST ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa. Bị cáo phải chấp hành chung cho 02 bản án từ 51 đến 57 tháng tù; bị hại đã nhận lại tài sản, bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận: Do cần tiền chi tiêu cá nhân, Lê Thị T đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi cụ thể: Vào khoảng 17h00 phút ngày 08/10/2021 tại Ki ốt bán quần áo số 71 của chị Hoàng Thị T1 thuộc chợ Đ, phường Đ, thành phố T, Lê Thị T đã lợi dụng sở hở trong việc quản lý tài sản đã lén lút chiếm đoạt của chị Hoàng Thị T1 số tiền 8.980.000đ.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố Lê Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo không có tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của Lê Thị T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo qui định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của BLHS. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người đúng tội, đúng Pháp luật.
[3] Bị cáo đã lợi dụng sơ hở mất cảnh giác của chủ tài sản trong việc quản lý tài sản của mình, nhanh chóng tiếp cận, lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an nơi khu vực, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do vậy phải được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân,tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có 02 tiền án về tội “trộm cắp tài sản”; Tiền án: Ngày 18/5/2017 bị Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 23/11/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố T tuyên phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” Bị cáo có 03 nhân thân về hành vi “ Trộm cắp tài sản” và “ Đánh bạc” ( các năm 2016,2018). Bị cáo đã nhiều lần bị xét xử chưa được xóa án tích và bị xử phạt hành chính về hành vi “trộm cắp” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để thức tỉnh trở thành con người lao động chân chính mà luôn lợi dụng sơ hở có điều kiện để trộm cắp tài sản, do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, để trừng trị bị cáo và giáo dục phòng ngừa tội phạm. Quá trình điều tra xét xử bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nên khi xem xét hình phạt cũng cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Pháp luật, yên tâm cải tạo trở thành con người có ích cho xã hội. Bị cáo đang chấp hành bản án hình sự sơ thẩm số 38/HSST ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 và điểm a khoản 1 Điều 55 BLHS để tổng hợp hình phạt còn lại của bản án trước và hình phạt của bản án mới. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Chị Hoàng Thị T1 đã nhận lại đầy đủ tài sản sau, do vậy không yêu cầu gì về phần bồi thường, nghĩ nên công nhận phần dân sự đã giải quyết xong.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56 và Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Lê Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Lê Thị T 33 ( Ba ba) tháng tù. Tổng hợp với 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” của bản án số 38/HSST ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T. Bị cáo phải chấp hành chung cho 02 bản án là 48 ( Bốn tám) tháng. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/10/2021.
Về trách nhiệm dân sự: Công nhận bị hại chị Hoàng Thị T1 đã nhận lại tài sản đầy đủ.
Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2021/HS-ST
Số hiệu: | 79/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về