TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 78/2022/HSST NGÀY 31/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2022/HSST ngày 26 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2022/QĐXXST-HS ngày 15/8/2022 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Lê Văn Q (tên gọi khác: không); sinh năm 1973, tại: Bạc Liêu; nơi cư trú: Khóm X, phường Y, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N, sinh năm 1943 và bà Trần Thị C (chết); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại (vắng mặt).
- Người bị hại:
Bà Nguyễn Xuân N, sinh năm 1966 (vắng mặt)
Trú tại: Ấp thị trấn A1, thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ, ngày 09/9/2021, tại Tịnh thất Bửu Q, khóm Kinh T, phường Y, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, Lê Văn Q có hành vi lấy trộm tài sản là 01 túi xách màu đen, 01 cái ví màu đỏ và 3.860.500đ của bà Nguyễn Xuân N, với tổng trị giá tài sản là 4.252.000đ.
Tại bản Cáo trạng số 76/CT-VKS-HS ngày 16/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu truy tố bị cáo Lê Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt đối với bị cáo Lê Văn Q mức án từ 03 đến 04 tháng tù giam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra và truy tố, những người tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập đúng trình tự, thủ tục luật định. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, thể hiện bản thân bị cáo là người không có nghề nghiệp nên để có tiền tiêu xài, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của bà Nguyễn Xuân N để lén lút lấy trộm tài sản của bà N gồm: 01 túi xách màu đen, 01 cái ví màu đỏ và 3.860.500đ, tổng trị giá tài sản là 4.252.000đ. Bị cáo thực hiện hành vi trộm tài sản trong trạng thái đủ năng lực trách nhiệm hình sự, với lỗi cố ý trực tiếp nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[3] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường xong số tiền 1.600.000 đồng theo yêu cầu của người bị hại và việc người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng hình phạt cho bị cáo, xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mang tính phòng ngừa ngừa chung trong xã hội.
[4] Về vật chứng trong vụ án: tài sản bị trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho người bị hại gồm 01 túi xách màu đen, 01 cái ví màu đỏ và số tiền 2.260.500 đồng là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại một phần tài sản bị chiếm đoạt và có yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền mất trộm là 1.600.000 đồng. Bị cáo đã nộp 1.600.00 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu. Do đó, bị hại được nhận số tiền này trong giai đoạn thi hành án.
[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 200.000 đồng.
[7] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu về tội danh, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về quyền kháng cáo: bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn Q 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584 và 589 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Lê Văn Q bồi thường cho bà Nguyễn Xuân N số tiền 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng). Bị cáo Quốc đã nộp số tiền 1.600.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002927 ngày 26/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, bà Nguyễn Xuân N được nhận lại số tiền 1.600.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2022/HSST
Số hiệu: | 78/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về