Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 78/2022/HS-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm, thụ lý số 43/2022/TLPT-HS ngày 22 tháng 6 năm 2022, do có kháng cáo của bị cáo Khuất Văn T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 90/2022/HSST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

Bị cáo có kháng cáo:

Khuất Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 02 tháng 8 năm 1988, tại Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn 7, xã PH, huyện PT, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Phùng Thị Vân A, sinh năm 1960; Con bà: Nguyễn Thị T1, sinh năm 1959; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Phùng Thị Vân A, sinh năm 1992; Có 02 con; Lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Tại bản án số 09 ngày 30/5/2007 của Tòa án nhân dân huyện PT, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố H) xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí hình sự ngày 17/8/2007.

+ Tại Bản án số 03 ngày 28/02/2008 của Tòa án nhân dân huyện PT, tỉnh Hà Tây xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bản án phúc thẩm số 57 ngày 25/04/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 09/30.05.2007 bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 30 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 1 29/05/2007. Tiền bồi T thiệt hại là 4.991.500đ, bị hại không yêu cầu bồi T và không có đơn yêu cầu thi hành án.

+ Tại bản án số 79 ngày 05/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện PT, thành phố H xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Chấp hành xong án phí tháng 5 năm 2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/02/2015.

+ Ngày 10/10/2013 bị Công an huyện PT, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính mức phạt 3.500.000 đồng về hành vi “Hủy hoại tài sản của người khác”.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Bị tạm giam từ ngày 15/11/2021 đến nay).

Trong vụ án này có bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không bị kháng nghị, vắng mặt do Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 12/11/2021, Khuất Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave ZX, biển kiểm soát 29V3 - 313.37 đi từ Hà Nội đến thành phố TN mục đích để bắt chuột bán lấy tiền. Khi đi T mang theo 01 chiếc vợt có lưới cước gắn vào cán tre dài khoảng 1,7 m. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/11/2021, T điều khiển xe mô tô đi đến ngõ 215 - đường Ga thuộc tổ 13, phường QT, thành phố TN thì quan sát thấy 01 con mèo (Giống Anh) lông dài, màu lông trắng - nâu - đen, khối lượng khoảng 2,3 kg đang đứng trước cửa nhà số 2, không có người quản lý nên nảy sinh ý định bắt trộm mang về nuôi. Thực hiện ý định đó T điều khiển xe mô tô đến gần vị trí con mèo đứng rồi dùng tay trái cầm chiếc vợt chụp bắt con mèo rồi điều khiển xe mô tô bỏ chạy ra phía đường Việt Bắc. Tuy nhiên do con mèo kêu to, lo sợ bị người dân phát hiện nên khi ra đến đường Việt Bắc, T đã vứt bỏ lại con mèo rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô đi quanh khu vực thành phố TN tìm bắt chuột, đến khoảng 05 giờ cùng ngày thì điều khiển xe đi về Hà Nội. Đến 20 giờ cùng ngày anh Trần Minh Q (sinh năm 2002, trú tại: Tổ 13, phường ĐQ, thành phố TN) phát hiện bị mất con mèo nên kiểm tra camera an ninh tại cổng khu trọ thì phát hiện T là người bắt trộm, nên rủ anh Lê Đình H, sinh năm 2002, trú tại: Ngõ 215, đường Ga, tổ 13, phường ĐQ, thành phố TN và Lục Tiến T, sinh năm 2002, trú tại: Số 208, tổ 2, phường Tân Thịnh, thành phố TN cùng đi đến chờ ở khu vực ngõ 215 đường Ga, thuộc tổ 13, phường QT, thành phố TN để xem T có quay lại không. Khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 14/11/2021 T tiếp tục điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave ZX, biển kiểm soát 29V3 - 313.37 mang theo chiếc vợt đi đến khu vực ngõ 215 đường Ga, thuộc tổ 13, phường QT, thành phố TN thì gặp anh Q, H, T2. Anh Q nhận ra T chính là người đã bắt trộm con mèo của anh nên chặn xe T lại rồi dùng tay, chân đấm, đá vào mặt và người T. H nhặt 01 chiếc gậy sắt ở ven đường vụt 2-3 cái vào người T. Sau đó anh Q hỏi T có bắt con mèo của anh không thì T không nhận nên anh Q mở điện thoại ra cho T xem đoạn video clip ghi lại hình ảnh T bắt trộm con mèo vào ngày 13/11/2021 thì T bỏ lại xe mô tô và chạy đến khu vực Sở Giao thông - vận tải tỉnh Thái Nguyên. Anh Q cùng H, T2 dồn đuổi theo bắt được T rồi lấy 01 đoạn dây chun quấn trói hai cổ chân và 01 đoạn dây điện quấn quanh người T, sau đó đưa T về phía trụ sở Công an phường QT để trình báo. Tuy nhiên khi đến khu vực lối vào trụ sở Công an phường QT, do T giãy giụa nên anh Q, T2, H đã dùng tay, chân đấm, đá nhiều cái vào người T. Cùng lúc tổ công tác Công an phường QT đến yêu cầu nhóm của Q và T về trụ sở làm việc.

Ngày 14/11/2021 anh Trần Minh Q có đơn đề nghị xử lý Khuất Văn T theo quy định của pháp luật.

Cùng ngày Khuất Văn T có đơn đề nghị xử lý đối với những người đã gây thương tích cho mình.

Tại bản kết luận số 388 ngày 30/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thành phố TN kết luận: 01 con mèo cái, loại mèo (Giống Anh) lông dài, màu lông trắng - nâu - đen, khối lượng khoảng 2,3kg có giá trị là 2.500.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 868 ngày 29/11/2021 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Thái Nguyên kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Khuất Văn T là 10%.

Tại Cơ quan điều tra, Khuất Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu ở trên. Lời khai nhận của Khuất Văn T phù hợp với biên bản sự việc, đơn trình báo, sơ đồ hiện trường, biên bản xác định hiện trường, biên bản nhận diện tài sản trộm cắp, biên bản mở đọc nội dung video clip trích xuất camera an ninh, lời khai của bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Về dân sự: Bị hại Trần Minh Q yêu cầu Khuất Văn T bồi thường giá trị con mèo là 2.500.000 đồng đến nay T chưa bồi thường.

Về phần thương tích Khuất Văn T không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 90/2022/HSST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố bị cáo Khuất Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Khuất Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 15/11/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Khuất Văn T phải trả cho bị hại Trần Minh Q số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Ngày 19/5/2022, bị cáo Khuất Văn T kháng cáo toàn bộ bản án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đề nghị xem xét lại việc định giá và xác định giá trị con mèo, bị cáo khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội của mình, bị cáo cho rằng mình đã trộm cắp tài sản là con mèo lai chứ không phải mèo giống Anh, giá trị con mèo không đến giá 2.500.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Kết luận định giá tài sản, trích xuất Camera an ninh, lời khai của người bị hại, người làm chứng để xác định tài sản và giá trị tài sản bị cáo đã trộm cắp để làm căn cứ kết tội đối với bị cáo. Mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Khuất Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo Khuất Văn T gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm là khách quan, phù hợp với lời khai của của bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản đọc video clip, kết luận định giá và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/11/2021, tại khu vực tổ 13, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, Khuất Văn T đã sử dụng 01 chiếc vợt lưới bằng cước, phần cán bằng tre dài khoảng 1,7m, vợt bắt trộm của anh Trần Minh Q 01 con mèo cái, loại mèo (Giống Anh) lông dài, màu lông trắng - đen - nâu, khối lượng khoảng 2,3kg có trị giá 2.500.000 đồng thì bị anh Q phát hiện và đưa T đến cơ quan Công an giải quyết.

Với hành vi trên, bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo: Bị cáo kháng cáo cho rằng con mèo bị cáo trộm cắp là mèo lai, không phải là mèo giống Anh và giá trị không đến 2.500.000 đồng, tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản, có đủ căn cứ xác định bị cáo đã trộm cắp tài sản là con mèo giống cái, loại mèo giống Anh, có giá trị là 2.500.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Khuất Văn T, giữ nguyên quyết định của bản án Hình sự sơ thẩm số 90/2022/HSST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Khuất Văn T 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 15/11/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Khuất Văn T phải bồi thường cho bị hại Trần Minh Q số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng).

3. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Khuất Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 90/2022/HSST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2022/HS-PT

Số hiệu:78/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về