Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ K, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở trụ sở Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 84/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Trường Phục A, sinh năm 1980, tại Tiền Giang.

Nơi cư trú: Số 199/17/11 M, Phường N, thành phố K, tỉnh Tiền Giang; số CMND: 311599241; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; A tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V (chết) và bà Lê Thị Ngọc X; bị cáo có vợ là Đào Thu Z; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2015;

Tiền sự: 01 lần. Ngày 15/3/2021, Tòa án nhân dân thành phố K ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Tiền Giang, thời hạn 15 tháng theo Quyết định số 14/2021/QĐ-TA. Bị cáo chưa chấp hành quyết định.

Tiền án: 02 lần.

- Ngày 13/12/2001, bị Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Tiền Giang xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 94/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2002. Bị cáo chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm nên chưa được xóa án tích.

- Ngày 25/4/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm tù giam về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Bản án số 27/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/12/2017. Bị cáo chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm nên chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ: Ngày 19/5/2021, tạm giam: Ngày 20/5/2021. Bị cáo “Có mặt”.

* Người bị hại: Anh Lê Văn B, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp L, xã H, huyện J, tỉnh Bến Tre.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Lê Văn C, sinh năm 1975 (vắng mặt);

Nơi cư trú: ấp L, xã H, huyện J, tỉnh Bến Tre.

2/ Anh Lê Tấn D, sinh năm 1967 (Có mặt);

Nơi cư trú: ấp G, xã F, huyện S, tỉnh Tiền Giang.

3/ Anh Nguyễn Thái E, sinh năm 2003 (Vắng mặt);

Nơi cư trú: ấp P, xã O, thành phố K, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 ngày 18/5/2021, Lê Trường Phục A đi bộ ngang nhà trọ của chị Trần Đào Uyên Phương địa chỉ Ấp U, xã Y, thành phố K thì A phát hiện xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 71B1-154.06 của anh Lê Văn B dựng trước phòng trọ số 04, không có người trông coi, cửa rào nhà trọ không khóa nên A nảy sinh ý định trộm xe bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. A đi vào bên trong nhà trọ, dùng chìa khóa nhặt được trước đó mở khóa xe và dẫn xe ra ngoài điều khiển chạy về hướng cống Bảo Định. Tại cống Bảo Định, A mở cốp xe lấy dụng cụ có sẵn trong cốp xe tháo biển số 71B1-154.06 ném xuống sông Bảo Định và gắn biển số 63B5-148.63 do A nhặt được tại điểm thu mua phế liệu. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, A ghé vào nhà nghỉ của anh Phùng Thắng Lê Minh, sinh năm 1998 tại địa chỉ khu phố 3, thị trấn Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An để thuê phòng nghỉ. Khi vào nhà nghỉ, A sử dụng giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Thái Dương, sinh năm 2003, ngụ Phước Hòa, Phước Thạnh, thành phố K, tỉnh Tiền Giang để thuê phòng nhưng giấy chứng minh nhân dân dán ảnh của A. Anh Minh nghi ngờ A sử dụng giấy chứng minh nhân dân giả nên trình báo Công an.

Quá trình điều tra xác định biển số xe mô tô 63B5-148.63 do ông Lê Tấn D, sinh năm 1967, ngụ ấp Bình An, xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang đăng ký thông tin chủ xe nhưng ông D đã bán xe lại cho người khác không làm thủ tục sang tên, ông D không có yêu cầu gì.

Quá trình điều tra xác định phôi giấy chứng minh nhân dân có số 312555777; Họ tên: Nguyễn Thái E, sinh ngày: 09-08-2003, Nguyên quán: Phước Thạnh, Châu Thành, Tiền Giang, Nơi ĐKHKTT: Ấp P, xã O, thành phố K, tỉnh Tiền Giang là phôi mẫu thật đã bị thay ảnh. Do vậy, hành vi này của A chưa đủ cấu thành tội “Làm giả hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 Bộ luật hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K không truy cứu trách nhiệm hình sự mà xử phạt vi phạm hành chính.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 300/KL-HĐĐGTS ngày 20/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố K kết luận: Xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen số máy 5C64-479317; số khung RLCS5C640BY479317 trị giá 7.800.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 89/CT-VKSMT ngày 141/9/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố K đã truy tố bị cáo Lê Trường Phục A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, xác định lại bị cáo A có 02 (hai) tiền án, phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Tòa án xử phạt bị cáo A từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đối với biển số xe 63B5-148.63 và giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thái Dương là công cụ, phương tiện phạm tội nên đề nghị tịch thu và tiêu huỷ; đối với áo khoác, áo sơ mi và quần jeans tại phiên toà bị cáo không có yêu cầu nên đề nghị tịch thu và tiêu huỷ theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, vật chứng thu giữ, cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18/5/2021, bị cáo đã có hành vi lén lút trộm xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 71B1-15406 của anh B trị giá 7.800.000 đồng. Bị cáo có 02 (hai) tiền án chưa được xoá án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Lê Văn B. Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm bất hợp pháp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn lợi ích cá nhân. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ do hành vi của bị cáo gây ra nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Bị cáo có nhân thân xấu và có 01 tiền sự về việc bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Biển số xe 63B5-148.63 và giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thái E là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu huỷ. Đối với 01 áo khoác, 01 áo sơ mi và 01 quần jeans là tài sản cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[6] Đối với lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát xét thấy phù hợp nên Tòa chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Lê Trường Phục A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Trường Phục A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 19/5/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Tịch thu và tiêu huỷ 01 (một) biển số xe 63B5-148.63 và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thái Dương.

Trả lại cho bị cáo Lê Trường Phục A 01(một) áo khoác, 01 (một) áo sơ mi và 01 (một) quần jeans.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/9/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố K)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ A Hội ngày 30/12/2016.

Bị cáo Lê Trường Phục A phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Thời hạn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2021/HS-ST

Số hiệu:78/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về