Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 77/2024/HS-ST NGÀY 19/09/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại điểm cầu Trung tâm phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu với điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an thị xã T, Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 60/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2024, đối với bị cáo:

Trương Thanh L, sinh ngày 03/4/1989, tại An Giang; nơi đăng ký thường trú (chỗ ở hiện nay): Khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không (lao động tự do); trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: Không; con ông Trương Văn D (đã chết) và bà Nguyễn Thị H (đã chết); tiền án: Không; tiền sự: ngày 29/5/2024, bị cáo L bị Công an thị xã T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản số tiền 2.500.000 đồng, chưa nộp phạt; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/6/2024 cho đến nay (có mặt).

Bị hại: Chị Trần Thị N, sinh năm 1982; cư trú: Khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1958; Địa chỉ: Khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân, khoảng 01 giờ ngày 26/06/2024, bị cáo Trương Thanh L điều khiển xe đạp đi tìm tài sản lấy trộm. Khi đến trước cửa hàng K của chị Trần Thị N thuộc khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang, bị cáo L nhìn thấy 01 (một) cái kệ bằng sắt, không người trông giữ. Bị cáo L đi đến dùng hai tay khiêng kệ sắt để lên yên sau xe đạp, dùng dây cao su (do bị cáo L chuẩn bị trước) giằng kệ sắt, điều khiển xe đạp chở về nhà. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, bị cáo L điều khiển xe đạp chở kệ sắt đến vựa phế liệu của bà Nguyễn Thị Thu T bán được 148.000 đồng. Chị Trần Thị N đến Công an phường L trình báo. Qua kiểm tra, xác minh, Công an phường L mời làm việc, bị cáo L khai nhận hành vi phạm tội.

Kết quả xác minh: Ngày 29/5/2024, bị cáo Trương Thanh L đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản số tiền 2.500.000 đồng, chưa nộp phạt.

Ngày 28/6/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T, đã khởi tố Trương Thanh L về tội "Trộm cắp tài sản".

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: 01 (một) kệ kim loại bằng sắt vuông 2x2cm, có chiều dài 100cm, chiều rộng 72cm, chiều cao 65cm, có trọng lượng 20kg, đã qua sử dụng (đã trao trả cho bị hại); 01 (một) xe đạp kiểu nữ có sơn màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) sợi dây thun, màu đen hai đầu có móc sắt dài 125cm, đã qua sử dụng.

Kết luận định giá tài sản số 871/KL-HDĐG-TTHS ngày 28/6/2024 của Hội đồng định giá tài sản, trong tố tụng hình sự thị xã T: 01 (một) kệ dùng để chở hàng bằng kim loại sắt vuông 2x2cm, có chiều dài 100cm, chiều rộng 72cm, chiều cao 65cm, có trọng lượng 20kg, đã qua sử dụng. Có giá trị là 600.000 đồng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường và bản ảnh đã lưu giữ phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Trần Thị N, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu T, không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo L khai nhận phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Trần Văn B, Trần Văn V, S, Trương Thanh H1 Cáo trạng số: 55/CT-VKSTC ngày 16/8/2024, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo L về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo L vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T giữ nguyên lời trình bày giai đoạn điều tra phù hợp với nội dung vụ án.

Bị hại chị N vắng mặt nhưng quá trình điều tra đều khai nhận phù hợp với nội dung vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo L từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 (một) sợi dây thun, màu đen hai đầu có móc sắt dài 125cm, đã qua sử dụng. Sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) xe đạp kiểu nữ có sơn màu trắng, đã qua sử dụng. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã nhận được tài sản bị chiếm đoạt và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà T, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề nghị giải quyết.

Bị cáo L không có tranh luận và bào chữa gì, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: - Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

- Tại phiên tòa, bị hại chị Trần Thị N vắng mặt. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Ngày 29/5/2024, bị cáo Trương Thanh L đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản số tiền 2.500.000 đồng, chưa nộp phạt. Vào khoảng 01 giờ ngày 26/06/2024, trước cửa hàng kho sơn T của chị Trần Thị N thuộc khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang, bị cáo Trương Thanh L có hành vi lấy trộm 01 (một) kệ dùng để chở hàng bằng kim loại sắt vuông 2x2cm, có chiều dài 100cm, chiều rộng 72cm, chiều cao 65cm, có trọng lượng 20kg, đã qua sử dụng. Có giá trị là 600.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo L đã phạm tội "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (tội phạm ít nghiêm trọng).

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình.

[4] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo L là người đã thành niên, bản thân có sức khỏe và có hiểu biết nhất định về pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện để làm ăn chân chính và hướng thiện. Trong vụ án này, hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ mục đích của tội phạm là chiếm đoạt được tài sản để tiêu dùng cá nhân.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo và thực sự ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thuộc thành phần lao động, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Đây là các tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và bản thân bị cáo là người sử dụng ma túy. Xét, phải có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo với bên ngoài xã hội trong thời gian nhất định để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Xét thấy, bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị N đã nhận được tài sản bị chiếm đoạt và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà T, không yêu cầu bị cáo bồi thường, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết tiếp.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 (một) sợi dây thun, màu đen hai đầu có móc sắt dài 125cm, đã qua sử dụng, liên quan đến việc phạm tội, không có giá trị sử dụng. Xét, tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) xe đạp kiểu nữ có sơn màu trắng, đã qua sử dụng, liên quan đến việc phạm tội. Xét, tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.

[8] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Trương Thanh L phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt bị cáo Trương Thanh L 09 (chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 28/6/2024).

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu bán phát mại sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) xe đạp kiểu nữ có sơn màu trắng, đã qua sử dụng. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) sợi dây thun, màu đen hai đầu có móc sắt dài 125cm, đà qua sử dụng.

(Đặc điểm tang vật như Quyết định xử lý vật chứng số 601 ngày 30/8/2024).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trương Thanh L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2024/HS-ST

Số hiệu:77/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về