Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 430/2023/QĐXXST-HS ngày 28/8/2023, đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn H; sinh năm: 1972; tại: Cần Thơ; nơi cư trú: 7 khu V, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ. Chỗ ở hiện nay: Nhà trọ 3 T, khu vực Y, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn L (chết) và bà Tô Thị Á (chết); vợ: Đỗng Thị T; tiền sự: không; tiền án: không.

Về nhân thân: Ngày 24/11/2011, bị Toà án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 74/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 21/4/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận C, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Thanh T1; sinh năm: 1973; tại: Cần Thơ; nơi cư trú: 175/4 Khu vực E, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn T2 (chết) và bà Trần Thị H1 (chết); vợ: Phan Thị Kim H2; con: Trần Thị Như Q, sinh năm: 2004; tiền sự: không; tiền án: không.

Về nhân thân:

1. Ngày 29/8/2000, bị Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ (cũ) xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp giật tài sản công dân (Điều 154) theo Bản án số 171/HSST.

2. Ngày 16/7/2009, bị Toà án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 39/HSST.

3. Ngày 07/11/2014, bị Toà án nhân dân quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 84/HSST.

4. Ngày 29/9/2014, bị Toà án nhân dân thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang xử phạt tù 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 48/HSST.

5. Ngày 22/10/2014, bị Toà án nhân dân thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, theo Bản án số 01/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 21/4/2023. Đến ngày 17/7/2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1/ Ông Võ Tấn V; sinh năm: 1988. Địa chỉ: Số G khu vực P, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2/ Ông Trần Hoàng T3; sinh năm: 1978. Địa chỉ: Số A đường C phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

3/ Ông Nguyễn Việt T4; sinh năm: 1988. Địa chỉ: Ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

4/ Ông Hoàng Xuân B; sinh năm: 1995. Địa chỉ: Ấp Đ, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.

5/ Bà Nguyễn Cẩm T5; sinh năm: 1990. Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7. Địa chỉ: Khu V, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ. Đại diện pháp luật: Ông Lê Châu T6- Giám đốc Công ty. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn H và Trần Thanh T1 rủ nhau cùng sử dụng xe ô tô biển số 65A- 241.xx để đi trộm cắp bình ắc quy trên các xe ô tô tải. Tối ngày 20/4/2023 đến rạng sáng ngày 21/4/2023, Bùi Văn H và Trần Thanh T1 đã cùng nhau trộm cắp 03 bình ắc quy trên các địa bàn phường T; phường T, quận C, thành phố Cần Thơ và 05 bình ắc quy trên địa bàn thị trấn N và thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang, cụ thể:

Vụ thứ nhất: T1 điều khiển xe ô tô chở H đi vào đường N, đến bãi đất trống đối diện tiệm Đ thuộc khu vực Y, phường T, quận C, phát hiện xe ôtô tải biển số: 65C-161.32 của anh Trần Hoàng T3 không người trông coi, H xuống xe, dùng kềm cắt dây xích sắt và lấy trộm 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V - 100AH để lên xe, còn T1 ở trên xe chờ và cảnh giới.

Vụ thứ hai: T1 tiếp tục chở H đi đến cây xăng N, thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang. T1 cho xe đậu lại gần xe ôtô tải biển số 65C-09041 của chị Nguyễn Cẩm T5, để H xuống xe lấy trộm 02 bình ắc quy nhãn hiệu Rocket 12V - 94AH.

Vụ thứ ba: T1 chở H đến thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang và ghé lại phía trước Ủy ban nhân dân thị trấn M, thấy xe ôtô tải biển số: 66C- 020.40 của anh Hoàng Xuân B đậu trước Uỷ ban, không ai trông giữ, T1 dừng xe để H xuống lấy trộm 02 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (P) 12V - 70AH.

Vụ thứ tư: T1 điều khiển xe ôtô chở H ra hướng ngã tư thị trấn M, nhìn thấy xe lu của anh Nguyễn Việt T4 đậu trong khu vườn sát lộ thuộc ấp P, thị trấn M, huyện C, tỉnh Hậu Giang, H xuống xe lấy được 02 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V - 120 AH. Do bình ắc quy nặng nên T1 xuống xe khiêng lên xe ô tô tiếp H.

Vụ thứ năm: T1 điều khiển xe ôtô chở H3 đi về theo tuyến đường N. Khi qua vòng xoay C hướng về Khu dân cư E khoảng 200m, cả hai nhìn thấy xe ô tô tải màu trắng, biển số: 64C-020.69 của anh Võ Tấn V đậu cặp lề đường Võ Nguyên G, thuộc khu vực P, phường T, quận C, T1 dừng xe lại để H xuống lấy trộm được 01 bình ắc quy nhãn hiệu GS 12V - 100AH.

Lúc này, Tổ tuần tra của Công an quận C, thành phố Cần Thơ phát hiện và truy đuổi đến ngã ba Khu dân cư T, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ thì chặn được phương tiện của H và T1 nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ các tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/TCKH-HĐĐG ngày 25 tháng 4 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận C, thành phố Cần Thơ kết luận:

- 01 Bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-100AH mua tháng 7/2020 x 800.000 đồng/bình = 800.000 đồng.

- 02 Bình ắc quy nhãn hiệu Rocket 12V-94AH mua tháng 01/2022 x 800.000 đồng/bình = 1.600.000 đồng.

- 02 Bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-70AH mua năm 2019 x 700.000 đồng/bình = 1.400.000 đồng.

- 02 Bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-120AH mua ngày 21/6/2019 x 1.000.000 đồng/bình = 2.000.000 đồng.

- 01 Bình ắc quy nhãn hiệu GS 12V-100AH mua ngày 06/7/2022 x 800.000 đồng/bình = 800.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài chiếm đoạt là 6.600.000 đồng (Sáu triệu sáu trăm ngàn đồng).

Đối với xe ô tô biển kiểm soát số 65A-241.xx do bà Võ Thị Việt H4 là chủ sở hữu. Bà H4 đã cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7 thuê với giá 10.000.000 đồng/tháng. Ngày 19/4/2023, Trần Thanh T1 đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7 thuê xe, thời hạn thuê từ lúc 14 giờ ngày 19/4/2023 đến 22 giờ ngày 20/4/2023 để đi Thành phố Hồ Chí Minh khám bệnh. Sau đó, T1 và H dùng xe này để đi trộm cắp tài sản. Việc T1 và H dùng xe tô biển kiểm soát số 65A-241.xx đi trộm cắp tài sản thì bên cho thuê xe không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C, thành phố Cần Thơ đã ra quyết định xử lý vạt chứng trả lại xe cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7 do ông Lê Châu T6 là đại diện.

Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận C đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho: ông Hoàng Xuân B 02 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-70AH; ông Nguyễn Việt T4 02 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-120AH; bà Nguyễn Cẩm T5 02 bình ắc quy nhãn hiệu Rocket 12V-94AH; ông Trần Hoàng T3 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-100AH; ông Võ Tấn V 01 bình ắc quy nhãn hiệu GS 12V-100AH; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7 do ông Lê Châu T6 là đại diện: 01 xe ô tô nhãn hiệu Mazda.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Hoàng Xuân B, Nguyễn Việt T4, Trần Hoàng T3, Võ Tấn V và bà Nguyễn Cẩm T5 không yêu cầu bồi thường gì thêm do đã nhận lại tài sản.

Tại Cáo trạng số: 66/CT-VKS-CR ngày 15/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ đã truy tố Bùi Văn H và Trần Thanh T1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu kết luận vụ án:

Xét thấy, tối ngày 20/4/2023 và rạng sáng ngày 21/4/2023, Bùi Văn H và Trần Thanh T1 cùng nhau lén lút lấy trộm 08 bình ắc quy của ông Hoàng Xuân B, Nguyễn Việt T4, Trần Hoàng T3, Võ Tấn V và bà Nguyễn Cẩm T5; tổng cộng, trị giá 6.600.000 đồng. Hành vi mà Bùi Văn H và Trần Thanh T1 thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản luật đã viện dẫn.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo thực hiện hành vi với vai trò ngang nhau nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo H và bị cáo T1 từ 09 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: các bị hại đã nhận tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Về tang vật: Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho: ông Hoàng Xuân B 02 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Pinaco) 12V-70AH; ông Nguyễn Việt T4 02 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (Phinaco) 12V- 120AH; bà Nguyễn Cẩm T5 02 bình ắc quy nhãn hiệu Rocket 12V-94AH; ông Trần Hoàng T3 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai (phinaco) 12V-100AH; ông Võ Tấn V 01 bình ắc quy nhãn hiệu GS 12V-100AH; ông Lê Châu T6 01 xe ô tô nhãn hiệu Mazda là đúng quy định, đề nghị công nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra.

Đề nghị tịch thu tiêu huỷ công cụ phạm tội gồm:

01 kìm cắt lớn bằng kim loại có tay cầm màu đen (đã qua sử dụng);

01 kìm cắt nhỏ bằng kim loại có tay cầm màu xanh (đã qua sử dụng);

01 mỏ lếch bằng kim loại 200mm (đã qua sử dụng);

06 chìa khoá bằng kim loại để mở ốc (đã qua sử dụng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, xét thấy có đủ cơ sở để kết luận:

Hành vi bị cáo Bùi Văn H và Trần Thanh T1 lén lút lấy trộm 08 bình ắc quy của ông Hoàng Xuân B, Nguyễn Việt T4, Trần Hoàng T3, Võ Tấn V và bà Nguyễn Cẩm T5, tổng cộng trị giá 6.600.000 đồng (Sáu triệu sáu trăm ngàn đồng) trong khoảng thời gian từ tối ngày 20/4/2023 đến rạng sáng ngày 21/4/2023, trên các địa bàn phường T, quận C, thành phố Cần Thơ; trên địa bàn thị trấn N, thị trấn M huyện C, tỉnh Hậu Giang và địa bàn phường T, quận C, thành phố Cần Thơ thì bị phát hiện và bắt giữ, đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là chính xác.

[3] Xét thấy, hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác; đồng thời, gây mất trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.

[4] Các bị cáo là người trưởng thành, đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Bị cáo biết được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do lười biếng lao động lại muốn có tiền tiêu xài nên vẫn thực hiện hành vi phạm tội; cho thấy, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải có hình phạt nghiêm khắc, bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù để giáo dục, cải tạo cho các bị cáo biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác và có tác dụng phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về vai trò của các bị cáo khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản: các bị cáo không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, đối với bị cáo H là người trực tiếp lấy tài sản, thực hiện tích cực hơn; còn bị cáo T1 chỉ giữ vai trò giúp sức lái xe và cảnh giới để bị cáo H thực hiện hành vi trộm cắp nên cần xem xét mức án tương xứng với các bị cáo khi lượng hình.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy khi lượng hình cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo như sau:

Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T1 và bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo T1 hiện đang bị bệnh hiểm nghèo, ung thư phổi giai đoạn 4 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường thêm nên không giải quyết.

[8] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại bình ắc quy cho các bị hại là đúng quy định nên cần công nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra.

- Đối với xe ô tô biển số 65A-241.xx do Trần Thanh T1 thuê của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7 vào lúc 14 giờ ngày 19/4/2023, thời hạn thuê đến 22 giờ ngày 20/4/2023 để đi Thành phố Hồ Chí Minh khám bệnh. Sau đó, T1 và H dùng xe này để đi trộm cắp tài sản thì người cho thuê xe không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C, thành phố Cần Thơ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T7 do ông Lê Châu T6 làm đại diện pháp luật là đúng quy định pháp luật nên cần công nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra.

- Đối với các công cụ phạm tội gồm: 01 kìm cắt lớn bằng kim loại có tay cầm màu đen (đã qua sử dụng); 01 kìm cắt nhỏ bằng kim loại có tay cầm màu xanh (đã qua sử dụng); 01 mỏ lếch bằng kim loại 200mm (đã qua sử dụng); 06 chìa khoá bằng kim loại để mở ốc (đã qua sử dụng): cần tịch thu, tiêu huỷ.

[9] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bùi Văn H phạm tội: ”Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bùi Văn H 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2023.

2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Trần Thanh T1 phạm tội: ”Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Trần Thanh T1 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến ngày 17/7/2023; Trần Thanh T1 còn phải chấp hành hình phạt tù 03 tháng 02 ngày, kể từ khi chấp hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không giải quyết.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu huỷ: 01 kìm cắt lớn bằng kim loại có tay cầm màu đen (đã qua sử dụng); 01 kìm cắt nhỏ bằng kim loại có tay cầm màu xanh (đã qua sử dụng); 01 mỏ lếch bằng kim loại 200mm (đã qua sử dụng); 06 chìa khoá bằng kim loại để mở ốc (đã qua sử dụng).

5. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án và danh mục án phí;

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo có mặt tại phiên tòa, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết đối với bị hại và đương sự vắng mặt tại phiên tòa; bị cáo, bị hại và các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2023/HS-ST

Số hiệu:77/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về