Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 30/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/07/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 55/2021/HSST ngày 31/05/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh H, sinh ngày: 06/03/1986 tại Nghệ An. Nơi đăng ký thường trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Nghệ An. Số CMND: 186267094 cấp ngày 06/03/2016, nơi cấp: Công an tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông Nguyễn Hữu Th (còn sống) và bà Trần Thị H (còn sống). Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 03 anh em.

Tiền án: Không Tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 12/04/2018 bị Công an huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bi cáo bị bắt tạm giam ngày 04 tháng 11 năm 2020 (đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng). Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

- Ông Hoàng Ngọc Anh T, sinh năm: 2001. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế (Vắng mặt).

- Ông Đinh Hữu B, sinh năm: 1994. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Quảng Nam (Vắng mặt).

- Ông Hồ Văn Ng, sinh năm: 1979. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P , thành phố Đà Nẵng (Có mặt).

- Ông Võ Thành T, sinh năm: 1997. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Quảng Nam (Vắng mặt).

- Ông Phạm Văn L, sinh năm: 1997. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).

- Bà Trần Thị L, sinh năm: 1998. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

- Ông Huỳnh Lê Thái B, sinh năm: 1994. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đắc Nông (Vắng mặt).

- Ông Đinh Xuân Tr, sinh năm: 1988. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

- Ông Lê Trần Minh Tr, sinh năm: 2000. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P , tỉnh Quảng Ngãi (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biên tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ tháng 04 đến tháng 10 năm 2020 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Mạnh H đã thực hiện 09 lần trộm cắp tài sản với mục đích có tiền tiêu xài cá nhân, cụ thể:

Vụ thứ 01: Khoảng 09 giờ 10 phút ngày 27/10/2020 tại trước số nhà 48 Cao Thắng, phường Thanh Bình, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, H lén lút trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Sirius RC, màu xám, đen, biển số: 75D1 - 345.30 của anh Hoàng Ngọc Anh T. H mở biển số vứt xuống kênh nước ở khu vực cầu Phú Lộc, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng (không tìm được). Sau đó, H lên mạng Internet đặt làm một biển số giả: 43H1-056.42 gắn vào xe để sử dụng. Đến ngày 03.11.2020 khi đang điều khiển xe đi trên đường thì bị tổ công tác 911 Công an thành phố Đà Nẵng nghi ngờ nên kiểm tra và mời về làm việc.

Theo kết luận định giá tài sản số 226/KL – HĐĐG ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND quận Hải Châu, kết luận: Xe mô tô biển số 75D1 – 345.30 có trị giá: 14.900.000 đồng.

Theo kết luận giám định số: 17/GĐ – BKS ngày 19/03/2021 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Biển số 43H1 -056.42 cần giám định (ký hiệu A) là giả.

Vụ thứ 02: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 29/04/2020 tại khu vực cầu đi bộ bên cạnh quán Cua Đồng – Lô 37 Hoàng Thị Loan, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng, H cảnh giới cho Ngọc (chưa xác định được lai lịch) lén lút trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu vàng, đen, biển số 92G1 - 147.24 của anh Đinh Hữu B (xe này anh B mượn của anh Phan Nhật V). Ngọc bán xe cho một người ở thành phố Hồ Chí Minh và chia cho H được: 2.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 247/KL – HĐĐG ngày 25/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND quận Hải Châu, kết luận: Xe mô tô biển số 92G1-147.24 nêu trên có trị giá 29.000.000 đồng.

Vụ thứ 03: Khoảng 18 giờ ngày 01/05/2020, tại trước quán Phương 2, đường Nguyễn Tất Thành, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, Hùng cảnh giới để Ng Trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đen, biển số 43F1 – 323.11 của anh Hồ Văn Ng (xe này Nguyên mượn của chị Hồ Nguyễn Phương Th). Ng bán xe trên cho một người ở thành phố Hồ Chí Minh và chia cho H số tiền: 2.500.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 248/KL – HĐĐG ngày 25/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, UBND quận Hải Châu, kết luận: Xe mô tô biển số 43F1 – 323.11 có trị giá: 40.000.000 đồng.

Vụ thứ 04: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28/06/2020 tại khu vực bãi biển cạnh khu du lịch Resort Furama, phường khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, H lén lút trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh, bạc, đen, biển số 92F1 – 300.53 của anh Võ Thanh T (xe này anh T mượn của anh Võ Thành T). H tháo biển số vứt xuống kênh nước ở khu vực cầu Phú Lộc, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng.

H nảy sinh ý định lừa đảo người khác để chiếm đoạt tài sản nên H lên mạng Internet đặt làm giả: 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thanh Nghị (sinh ngày: 06/03/1984, HKTT: Thôn An Kỳ, xã Tịnh kỳ, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi), 01 Giấy đăng ký xe mô tô và 01 biển số 76B1 – 328.62 rồi gắn vào xe trên. Ngày 25/08/2020, H nhờ Ngô Xuân H dẫn đến tiệm cầm đồ Win – số 211 Thanh Vinh 10, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng do anh Phạm Văn L làm chủ. H tự xưng là Lê Thanh Nghị, đưa giấy chứng minh nhân dân và giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Lê Thanh Nghị cho anh L xem. Anh L tin tưởng là thật nên nhận cầm cố chiếc xe trên với số tiền: 18.000.000 đồng ( thời hạn cầm cố là 01 tháng, lãi suất: 1.000.000 đồng). Hai ngày sau, H đến gặp anh L lấy thêm 1.000.000 đồng. Quá thời hạn, không thấy H lấy lại xe, anh L kiểm tra lại giấy tờ, nghi là giả nên trình báo Công an phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng.

Theo kết luận định giá tài sản số: 01/KL – HĐĐG ngày 08/01/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình, kết luận: Xe mô tô biển số 92F1 – 300.53 có trị giá: 28.800.000 đồng.

Theo kết luận giám định số: 237/C09C – DD2 ngày 18/03/2021 của Phân viện khoa học hình sự, Bộ Công an tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Giấy chứng minh nhân dân và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Lê Thanh Nghị là giả.

Theo kết luận giám định số: 47/GĐ – BKS ngày 05/05/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Biển kiểm soát 76B1 – 328.62 cần giám định là giả.

Vụ thứ 05: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, tại khu vực bãi biển bên cạnh khách sạn Pullman, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, H cảnh giới cho Ng trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh, bạc, đen, biển số: 74D1 – 205.41 của chị Trần Thị L (xe này chị L mượn của anh Nguyễn Minh M). Ng đem xe trên bán cho một người ở thành phố Hồ Chí Minh và chia cho H số tiền: 2.500.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 04/KL – HĐĐG ngày 11/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Xe mô tô biển số 74D1 – 205.41 có trị giá: 34.800.000 đồng.

Vụ thứ 06: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 16/07/2020, tại khu vực bờ biển đường Hoàng Sa, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, H lén lút trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đen, biển số: 48D1 – 202.95 của anh Huỳnh Lê Thái B. Sau đó, H nhờ Ng giới thiệu để bán cho một người ở TP. Hồ Chí Minh với giá 5.500.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 04/KL – HĐĐG ngày 11/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Xe mô tô 48D1 – 202.95 nêu trên trị giá: 32.500.000 đồng.

Vụ thứ 07: Khoảng 17 giờ ngày 26/9/2020, tại khu vực bờ biển ở cuối đường Hồ Xuân Hương, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, H lén lút trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu trắng, đỏ, biển số: 47 C1 – 190.05 của anh Đinh Xuân Tr. H nhờ Ngọc giới thiệu để bán cho một người ở thành phố Hồ Chí Minh với giá: 6.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 03/KL – HĐĐG ngày 11/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Xe mô tô biển số 47C1 – 190.05 trị giá: 31.500.000 đồng.

Vụ thứ 08: Khoảng 22 giờ 50 phút ngày 03/10/2020, tại công viên Biển Đông, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, H lén lút trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu xám, đen, biển số: 76G1 -194.82 của anh Lê Trần Minh Tr (xe này đứng tên chủ sở hữu anh Nguyễn Trung K). H nhờ Ng giới thiệu để bán cho một người ở TP Hồ Chí Minh với giá 4.500.000 đồng. Xe này không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 02/ KL – HĐĐG ngày 11/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Xe mô tô biển số: 76G1 - 194.82 có trị giá: 13.600.000 đồng.

Vụ thứ 09: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 16/10/2020, tại số nhà K317/1 Âu Cơ, phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng, H cảnh giới để Ng trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng, đỏ, đen, biển số 92H1 – 770.66 của anh Võ Đăng G. Cả hai điều khiển xe đến gửi tại nhà giữ xe của bến xe Trung tâm thành phố Đà Nẵng. Xe đã thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 225/KL – HĐĐG ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: Xe mô tô biển số 92H1 – 770.66 có trị giá: 40.500.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản Nguyễn Mạnh H trộm cắp tài sản là: 265.600.000 đồng và 01 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trị giá 19.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 58/CT – VKS ngày 31/05/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng quyết định truy tố Nguyễn Mạnh H về các tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173; Tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b, c, d khoản 2 Điều 341; Tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; Điểm b, g khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm b, c, d khoản 2 Điều 341; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội từ 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng đến 14 (mười bốn) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu xám, đen, số khung:

3240JY167218, số máy: E3X9E456718 của anh Hoàng Ngọc Anh Tuấn; 01 xe mô tô biển số 92H1 – 770.66 của anh Võ Đăng Giang; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, bạc, đen, số khung: RLCCUG0610GY380509, số máy: G3D4E39921 của anh Võ Thanh Tín. Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã trả lại cho các chủ sở hữu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

- Đề nghị quy trữ trong hồ sơ vụ án 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 201787 mang tên Lê Thanh Nghị; 01 giấy chứng minh nhân dân số 213376495 mang tên Lê Thanh Nghị; 01 biển số xe mô tô BKS: 76B1 – 328.62; 01 biển số xe mô tô BKS: 43H1 – 056.42.

- Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chìa khóa xe hiệu Honda có quấn băng keo màu đen; 01 chìa khóa xe hiệu Yamaha có quấn băng keo màu đen; 01 đoản kim loại màu xám, dài 08cm, bên ngoài có quấn băng keo màu đen; 01 đoản kim loại màu trắng, dài 10cm, bên ngoài có quấn băng màu đen; một đoản kim loại màu trắng hình chữ L, dài 10cm, có quấn băng màu đen; 01 cờ lê 10, bằng kim loại màu trắng sáng, dài khoảng 14cm, bên ngoài có quấn băng keo màu đen.

- Đề nghị tuyên sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu xám, đã qua sử dụng gắn sim số 0935.126991.

Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại ông Phạm Văn Long đã được gia đình bị cáo Hù bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, ông L không yêu cầu bồi thường gì thêm. Những người bị hại ông Hoàng Ngọc Anh T, ông Võ Đăng Gi, ông Võ Thanh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H bồi thường cho những người bị hại ông Đinh Hữu B số tiền: 29.000.000 đồng, ông Hồ Văn Ng tại phiên tòa yêu cầu số tiền 30.000.000 đồng, bà Trần Thị L số tiền: 34.800.000 đồng, ông Huỳnh Lê Th Bảo số tiền: 32.500.000 đồng, ông Đinh Xuân Tr số tiền: 31.500.000 đồng, ông Lê Trần Minh Tr số tiền 13.600.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh H đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đề cập. Bị cáo không có ý kiến về mặt tội danh cũng như điều luật mà đại diện Viện kiểm sát truy tố và đề nghị áp dụng.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người đã tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và những chứng cứ, tài liệu khác mà cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để xác định: Trong thời gian từ tháng 04 đến tháng 10 năm 2020 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, bị cáo Nguyễn Mạnh H đã thực hiện 09 lần trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là: 265.600.000 đồng theo như các kết luận định giá tài sản: Số 226/KL- HĐĐG ngày 06/11/2020; Số 247/KL- HĐĐG ngày 25/12/2020; Số 248/KL- HĐĐG ngày 25/12/2020; Số 01/KL- HĐĐG ngày 07/01/2021; Số 04/KL- HĐĐG ngày 11/01/2021; Số 03/KL- HĐĐG ngày 11/01/2021; Số 02/KL- HĐĐG ngày 11/01/2021; Số 225/KL- HĐĐG ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hải Châu và quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp định khung hình phạt “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” theo điểm a khoản 3 Điều 173 về tội “Trộm cắp tài sản”.

Sau khi thực hiện được việc trộm cắp tài sản, bị cáo lên mạng Internet đặt làm giả 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thanh Nghị (sinh ngày: 06/3/1984, HKTT: Thôn An Kỳ, xã Tịnh Kỳ, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi); 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 biển số xe mô tô BKS: 76B1 – 328.62 và 01 biển số 43H1 – 056.42 theo như kết luận giám định số: 237/C09C – DD2 ngày 18/03/2021 của Phân viện khoa học hình sự bộ Công an tại thành phố Đà Nẵng và kết luận giám định số: 17/GĐ – BKS ngày 19/3/2021 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng đã kết luận. Như vậy, hành vi phạm tội này của bị cáo đã phạm vào tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” với 03 tình tiết định khung hình phạt “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác” và “Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng” được quy định tại điểm b, c, d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Bị cáo gắn BKS: 76B1 – 328.62 làm giả vào xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 92F1 – 300.53 đã trộm cắp trước đó và đưa giấy tờ làm giả đến tiệm cầm đồ Win nói dối với anh Phạm Văn L là xe của bị cáo để chiếm đoạt của anh L số tiền: 19.000.000 đồng, hành vi này của bị cáo H đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự như cáo trạng số: 58/CT - VKS ngày 31/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà bị cáo đã thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự quản lý hành chính của nhà nước gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho người bị hại cho ông Phạm Văn Long số tiền 20.000.000 đồng. Tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” với 02 (hai) tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” và “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân bị Công an huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” . Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng có tác dụng giáo dục phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[7] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Mạnh H như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo H không có nghề nghiệp. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 173, khoản 4 Điều 341 và khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ Luật hình sự xử lý như sau:

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu xám, đen, số khung:

3240JY167218, số máy: E3X9E456718 của anh Hoàng Ngọc Anh Tuấn; 01 xe mô tô biển số 92H1 – 770.66 của anh Võ Đăng Giang; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh, bạc, đen, số khung: RLCCUG0610GY380509, số máy: G3D4E39921 của anh Võ Thanh T. Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã trả lại cho các chủ sở hữu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không xét.

- Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 201787 mang tên Lê Thanh Nghị; 01 giấy chứng minh nhân dân số 213376495 mang tên Lê Thanh Nghị; 01 biển số xe mô tô BKS: 76B1 – 328.62; 01 biển số xe mô tô BKS 43H1 – 056.42 . Hội đồng xét xử, xét thấy đây là các giấy tờ bị cáo làm giả, chứng cứ phạm tội của bị cáo. Do đó, cần quy trữ trong hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 chìa khóa xe hiệu Honda có quấn băng keo màu đen; 01 chìa khóa xe hiệu Yamaha có quấn băng keo màu đen; 01 đoản kim loại màu xám, dài 08cm, bên ngoài có quấn băng keo màu đen; 01 đoản kim loại màu trắng, dài 10cm, bên ngoài có quấn băng màu đen; Một đoản kim loại màu trắng hình chữ L, dài 10cm, có quấn băng màu đen; 01 cờ lê 10, bằng kim loại màu trắng sáng, dài khoảng 14cm, bên ngoài có quấn băng keo màu đen. Xét đây là các công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng. Do đó, cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu xám, đã qua sử dụng gắn sim số 0935.126991. Xét đây là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Do đó, cần tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với người bị hại ông Phạm Văn L đã được gia đình bị cáo Hùng bồi thường số tiền 20.000.000 đồng; Người bị hại ông Hoàng Ngọc Anh T, ông Võ Đăng Gi, ông Võ Thanh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- Những người bị hại yêu cầu bị cáo Hùng phải bồi thường gồm: Ông Đinh Hữu B yêu cầu bồi thường số tiền: 29.000.000 đồng, ông Hồ Văn Ng tại phiên tòa yêu cầu bồi thường số tiền 30.000.000 đồng, bà Trần Thị L yêu cầu bồi thường số tiền: 34.800.000 đồng, ông Huỳnh Lê Thái B yêu cầu bồi thường số tiền:

32.500.000 đồng, ông Đinh Xuân Tr yêu cầu bồi thường số tiền: 31.500.000 đồng, ông Lê Trần Minh Tr yêu cầu bồi thường số tiền 13.600.000 đồng. Hội đồng xét thấy yêu cầu bị cáo Nguyễn Mạnh H bồi thường thiệt hại đối với số tiền trên của những người bị hại là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[10] Các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với đối tượng tên Ng có hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo Nguyễn Mạnh H và người đã mua xe do Ngọc, H trộm cắp được, hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đang tiếp tục điều tra, xử lý sau là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

- Đối với Ngô Xuân H do bị cáo Hùng nhờ dẫn đến cầm xe mô tô cho anh Phạm Văn L nhưng Hiền không biết việc H trộm cắp xe, làm giả giấy tờ để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh L và không hưởng lợi nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng không đề cập xử lý đối với Ngô Xuân H là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm số tiền: 8.570.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm các tội “Trộm cắp tài sản”, tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

+ Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm b, g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Áp dụng điểm b, c, d khoản 2 Điều 341; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 12 (mười hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 tội là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 04/11/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tuyên:

- Quy trữ hồ sơ vụ án: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 201787 mang tên Lê Thanh Nghị; 01 giấy chứng minh nhân dân số 213376495 mang tên Lê Thanh Nghị; 01 biển số xe mô tô BKS 76B1 – 328.62; 01 biển số xe mô tô BKS: 43H1 – 056.42.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa xe hiệu Honda có quấn băng keo màu đen;

01 chìa khóa xe hiệu Yamaha có quấn băng keo màu đen; 01 đoản kim loại màu xám, dài 08cm, bên ngoài có quấn băng keo màu đen; 01 đoản kim loại màu trắng, dài 10cm, bên ngoài có quấn băng màu đen; Một đoản kim loại màu trắng hình chữ L, dài 10cm, có quấn băng màu đen; 01 cờ lê 10, bằng kim loại màu trắng sáng, dài khoảng 14cm, bên ngoài có quấn băng keo màu đen - Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu xám, đã qua sử dụng gắn sim số 0935.126991.

Các vật chứng hiện đang được lưu giữ tại cơ quan Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/06/2021.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải bồi thường cho những người bị hại gồm: Bồi thường cho ông Đinh Hữu B số tiền: 29.000.000 đồng, Bồi thường cho ông Hồ Văn Ng số tiền 30.000.000 đồng, bồi thường cho bà Trần Thị L số tiền: 34.800.000 đồng, bồi thường cho ông Huỳnh Lê Thái B số tiền: 32.500.000 đồng, bồi thường cho ông Đinh Xuân Tr số tiền: 31.500.000 đồng, bồi thường ông Lê Trần Minh Tr số tiền 13.600.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền:

200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm số tiền: 8.570.000 đồng.

5. Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 77/2021/HS-ST

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về