TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Võ Tấn T, sinh năm 1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số x, đường NDD, phường x1, Quận x2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn T1 và bà Quang Thị T2; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 23/4/2020, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HS-ST (chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/8/2020); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/02/2012, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2012/HSST. Ngày 06/8/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường Giáo dục đào tạo và giải quyết việc làm số 3 để cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 21 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TA; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/12/2021 cho đến nay; có mặt.
Bị hại: Ông Phạm Minh Đ, sinh năm 1982, cư trú tại số x3, đường Y, tổ x4, khu phố x5, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phan D, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn HU, xã VA, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên - Huế; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
- Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 06 giờ 20 phút, ngày 02/12/2021, T đi bộ trên các tuyến đường thuộc phường H, thành phố M để tìm tài sản lấy trộm. Khi T đi đến phía trước căn nhà tại phường H, thành phố M của anh Phạm Minh Đ thì T thấy cửa nhà mở, nhìn vào bên trong thấy không có người trông coi nên T liền đi vào trong nhà để tìm tài sản lấy trộm thì T thấy 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh-đen đang để trên chiếc nệm đặt trên nền nhà nên T liền đi đến lấy trộm chiếc điện thoại trên rồi đem đến cửa hàng điện thoại di động HT bán cho chủ cửa hàng điện thoại là anh Phan D được số tiền 900.000 (chín trăm nghìn) đồng rồi T sử dụng số tiền trên tiêu xài cá nhân hết.
Đến khoảng 06 giờ, ngày 06/12/2021, Võ Tấn T tiếp tục quay lại nhà của anh Phạm Minh Đ tìm tài sản để lấy trộm thì lúc này anh Đ nhìn thấy T có hình dạng giống với đối tượng đã lấy trộm điện thoại của anh Đ mà camera ghi hình tại nhà của anh Đ đã ghi lại vào ngày 02/12/2021 nên anh Đ hỏi T thì T thừa nhận bản thân đã lấy trộm chiếc điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh-đen của anh Đ nên anh Đ vận động T đến Cơ quan Công an để đầu thú. Khoảng 07 giờ cùng ngày 06/12/2021, T đến Công an phường H đầu thú và khai nhận về hành vi lấy trộm tài sản tại nhà anh Đ như đã nêu trên. Sau đó, Công an phường H đã tiến hành lập Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú. Cùng ngày 06/12/2021, Công an phường H đã chuyển hồ sơ cùng đối tượng T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền. Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh-đen, do anh Phan D đã bán cho người khách nam (hiện chưa xác định được họ tên và địa chỉ cư trú) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một không thu hồi được.
Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 363/KLTS-TTHS ngày 10/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh-đen, trị giá 1.800.000 (một triệu tám trăm nghìn) đồng.
Về các vấn đề khác của vụ án: Đối với anh Phan D, quá trình điều tra, xác định:
Anh D không biết chiếc điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh-đen là tài sản do Võ Tấn T phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Dương.
Bản Cáo trạng số 69/CT-VKS - HS ngày 18/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Võ Tấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Tấn T mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị giải quyết.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp 900.000 đồng sung ngân sách nhà nước.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát đồng thời không tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi sai trái của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, nguời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Tấn T đã khai nhận: Khoảng 06 giờ 20 phút ngày 06/12/2021, bị cáo Võ Tấn T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh-đen, trị giá 1.800.000 (một triệu tám trăm nghìn) đồng của anh Phạm Minh Đ; tuy tài sản bị chiếm đoạt có trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng bản thân bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân đồng thời sau khi phạm tội đã đầu thú được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Căn cứ vào hành vi, giá trị tài sản, xét mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị là tương đối nghiêm khắc. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát.
[7] Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Do bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết. Buộc bị cáo nộp 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) thu lợi bất chính sung ngân sách Nhà nước.
[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Võ Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Tấn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/12/2021.
3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.
4/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo nộp 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) sung ngân sách Nhà nước.
5/ Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2022/HS-ST
Số hiệu: | 75/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về