TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 75/2020/HS-PT NGÀY 07/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình thụ lý số: 53/2020/HS-PT ngày 15/6/2020 đối với bị cáo Nguyễn V, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Toà án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn V; sinh ngày: 01 tháng 9 năm 1987 tại xã Q, thị xã B; Nơi cư trú: thôn V, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và con bà Phạm Thị Q; có vợ: Hoàng Thị Th; có 02 đứa con, đứa lớn sinh năm 2008, đứa nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/01/2020 đến ngày 29/02/2020 thì được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh cho đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
- Vụ án có bị cáo Đoàn Minh Q, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhưng không có kháng cáo, bản án không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 9 năm 2019, Nguyễn V đang ở nhà thì anh Hoàng Văn H trú tại thôn Th, xã Q, thị xã B gọi điện nhờ đến nhà sửa điện sáng. Nguyễn V điều khiển xe mô tô BKS 73K6-5378 đến nhà anh Hoàng Văn H và được anh H dẫn lên tầng 2 để sửa điện. Trong quá trình sửa chữa điện, Nguyễn V nhìn thấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 8 plus màu đỏ đặt trên chiếc quạt hơi nước ở lối đi hành lang của tầng 2 nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. V đi lại lấy trộm chiếc điện thoại cất vào túi quần rồi đi xuống tầng một nói với anh H là về nhà lấy thêm đồ để sửa chữa điện. Sau đó V đem chiếc điện thoại trộm cắp được về nhà cất giấu rồi quay lại nhà anh Hoàng Văn H tiếp tục sửa điện.
Đến khoảng giữa tháng 10/2019 Nguyễn V gọi điện thoại cho Đoàn Minh Q để bán chiếc điện thoại đã trộm cắp nói trên. Sau đó hai bên bàn bạc và Q đồng ý mua với giá 5.000.000 đồng. V hẹn gặp Q tại cây xăng ở giữa cánh đồng thuộc thôn V, xã Q, thị xã B để giao điện thoại cho Q. Sau khi xem xong, Q hỏi V "ở vùng mô" ý hỏi điện thoại trộm cắp ở đâu, V trả lời "vùng C", Q hỏi tiếp"có kín không" ý hỏi việc trộm điện thoại có an toàn không, có bị phát hiện không, V trả lời "máy ni anh một chắc nên kín", nghe vậy Q cầm điện thoại rồi đi về nhà mình. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Q mang chiếc điện thoại đó đến quày điện thoại di động "Th" ở tổ dân phố C, phường Q, thị xã B bán cho anh Th chủ quày với giá 5.700.000 đồng, đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Q chuyển số tiền 5.000.000 đồng vào tài khoản của Nguyễn V và H đã tiêu xài cá nhân hết, còn 700.000 đồng Q giữ lại tiêu xài cá nhân Tại Bản kết luận định giá tài sản số 03/HĐ ngày 03/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ba Đồn kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphon8 plus màu đỏ, bộ nhớ 6GB đã qua sử dụng của anh Hoàng Văn H tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm ngàn đồng) Cơ quan CSĐT Công an thị xã Ba Đồn đã thu hồi điện thoại trả lại cho anh Hùng và anh Hùng không có yêu cầu gì thêm.
Nguyễn V trả cho Đoàn Minh Q 5.000.000 đồng, Đoàn Minh Q cũng trả lại cho anh Th 5.700.000 đồng và không có yêu cầu gì thêm.
Bản cáo trạng số: 12/CT-VKSTXBĐ ngày 17/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố bị cáo Nguyễn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và Đoàn Minh Q về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2020/HSST ngày 29/4/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn đã quyết định:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn V phạm tội “Trộm cắp tài sản” và bị cáo Đoàn Minh Q phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” - Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn V 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án, được trừ 58 ngày tạm giam trước (từ ngày 03/01/2020 đến ngày 29/02/2020) - Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Minh Q 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.Giao Đoàn Minh Q cho UBND xã Q, thị xã B giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt.
Bản án sơ thẩm còn tuyên các quy định đối với người được hưởng án treo về thay đổi nơi cư trú, vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự; quyết định về phần án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo cho các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Trong thời hạn, bị cáo Nguyễn V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, sửa Bản án sơ thẩm nhưng giữ nguyên mức hình phạt và chuyển cho bị cáo Nguyễn V được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Nguyễn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giá trị tài sản là chiếc điện thoại di động Apple Iphon8 plus bị chiếm đoạt là 7.500.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ khẳng định Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS- ST ngày 29 tháng 4 năm 2020 của Toà án nhân dân thị xã Ba Đồn quyết định tuyên bố bị cáo Nguyễn V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có công việc làm ổn định nhưng vì lòng tham, nên khi đến nhà anh Hoàng Văn H để sửa điện sáng, bị cáo thấy chiếc điện thoại để trên chiếc quạt hơi nước nên đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, bị cáo lấy trộm đưa về nhà cất giấu và sau đó đem đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân hết, hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, cần phải được xét xử nghiêm, án sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa thật thà khai báo ăn năn hối cải thuộc trường hợp quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, ngoài ra bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ chưa được cấp sơ thẩm xem xét là phạm tội gây thiệt hại không lớn quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Đối với hành vi bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy bị UBND xã Q xử phạt hành chính là sau ngày bị cáo phạm tội nên không thể coi là tiền sự, án sơ thẩm xác định bị cáo có tiền sự là không đúng.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, nên cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm chuyển hình phạt cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo V được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn V. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 29/4/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn về phần hình phạt.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn V 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn V cho UBND xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình theo dỏi, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự;
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: bị cáo Nguyễn V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (07/8/2020).
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 75/2020/HS-PT
Số hiệu: | 75/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về