Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1985, tại tỉnh B. Nơi cư trú: Tô H, phường Hồ N, quận Lê C, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam; giới tính: Nữ; con ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1955 và bà Vũ Thị N, sinh năm 1956 (chết); bị cáo có chồng tên: Phạm Xuân H, sinh năm 1974; con có 03 người, lớn nhất sinh năm 2008 và nhỏ nhất sinh ngày 30 tháng 4 năm 2022; tiền án: 04 lần. Cụ thể: Ngày 09/7/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Đánh bạc”. Ngày 21/11/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận C, thành phố C xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, (trị giá tài sản chiếm đoạt là: 3.354.000 đồng). Ngày 07/8/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, (trị giá tài sản chiếm đoạt là: 935.500 đồng). Ngày 26/10/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận H, Thành phố H xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản chiếm đoạt là 698.500 đồng). Bị cáo chấp hành xong án phạt tù về địa phương vào tháng 4/2021. Hiện nay, bị cáo chưa được xoá án tích; tiền sự: không; bị cáo có nhân thân xấu; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại, dịch vụ S- T (Siêu thị COOPMART T). Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Việt H, sinh năm 1984 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: đường Sơn T, khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T.

Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1995 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Tô H, phường Hồ N, quận Lê C, thành phố H.

2/ Ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1989 (vắng mặt). Nơi cư trú: ấp L, xã N, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 05/7/2022, bị cáo Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1985, ngụ Tô H, phường H, quận Lê C, thành phố H, nhờ Nguyễn Minh T, sinh năm 1995, ngụ Tô H, phường Hồ N, quận Lê C, thành phố H, chở đến Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ S - T (Siêu thị Coopmart T) thuộc khóm Q, phường W, thành phố T, tỉnh T, để mua đồ dùng sinh hoạt. Khi đến nơi, bị cáo một mình đi vào bên trong Siêu thị còn anh T bỏ đi, sao đó bị cáo lấy giỏ đựng hàng và đi đến khu vực trưng bày bán mặt hàng mỹ phẩm, thấy Siêu thị không có nhân viên bảo vệ trông coi nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo lấy 10(Mười) hộp kem rửa mặt nhãn hiệu Pond’s FRD, loại 100g/hộp để vào trong giỏ hàng rồi tiếp tục đi đến tủ trưng bày sữa lấy 02(Hai) hộp sữa thực phẩm dinh dưỡng, nhãn hiệu Ensure Gold, hương Vani, loại 850g/hộp để vào trong giỏ hàng. Sau đó, bị cáo kéo giỏ hàng đi đến khu vực bán quần áo rồi dùng tay tháo gỡ 02 (Hai) team từ chống trộm gắn trên 02(Hai) hộp sữa Ensure vì bị cáo biết rõ nếu không tháo gỡ 02(Hai) team từ này ra khi đi ngang qua khu vực kiểm soát an ninh 02(Hai) team từ này sẽ phát cảnh báo chống trộm thì bị nhân viên Siêu thị phát hiện.

Khi trộm được tài sản, bị cáo cất giấu vào bên trong dưới đáy quần thun đang mặc trên người vì lúc này bị cáo mặc hai quần thun bó sát bên trong và mặc chiếc đầm dài bên ngoài, có mặc thêm áo khoác vải Jeans ngụy trang giống như người phụ nữ đang mang thai để che giấu, tránh sự phát hiện của nhân viên bảo vệ Siêu thị. Bị cáo tiếp tục lấy 01(Một) chai dầu gội nhãn hiện X- Men và 01(Một) chai lau sàn nhà nhãn hiệu Gift rồi đi đến quầy thu tiền số 06 để thanh toán tiền 02 món đồ trên với số tiền là 213.900 đồng (Hai trăm mười ba nghìn chín trăm đồng). Sau khi thanh toán tiền xong, bị cáo mang theo tài sản vừa trộm được là 10(Mười) hộp kem rửa mặt nhãn hiệu Pond’s FRD, loại 100g/hộp và 02(Hai) hộp sữa nhãn hiệu Ensure Gold, hương Vani, loại 850g/1 hộp đang cất giấu trong quần thun đang mặc trên người đi ra ngoài thì bị anh Nguyễn Việt Hưng, sinh năm 1984 là Tổ trưởng tổ bảo vệ của Siêu thị cùng các nhân viên của Siêu thị phát hiện bắt quả tang và tạm giữ đồ vật gồm: 02(Hai) hộp sữa thực phẩm dinh dưỡng, nhãn hiệu Ensure Gold, loại hương Vani, trọng lượng 850g/hộp;

10(Mười) hộp kem rửa mặt, nhãn hiệu Pond’s FRD, loại 100g/hộp (trong đó có một hộp đã bị hỏng nấp đậy); 01(Một) vòng dây bằng kim loại màu xám, chu vi 47cm, trên vòng dây có gắn một team từ bằng nhựa màu đen, hình tròn, đường kính 05cm; 01(Một) vòng dây bằng kim loại màu xám, chu vi 42cm, trên vòng dây có gắn một team từ bằng nhựa màu đen, hình tròn, đường kính 05cm; 01(Một) chai dầu gọi nhãn hiệu X-Men Luxury trọng lượng 650g; 01(Một) chai nước lau sàn nhãn hiệu Gift, trọng lượng 01 lít; 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A92, màu xanh và tiền Việt Nam: 2.240.000 đồng (Hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng). Sau đó, anh H bàn giao bị cáo cùng tang vật cho Công an phường Q, thành phố T, tỉnh T, để xử lý.

Quá trình làm việc, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ S - T (Siêu thị Coopmart T), nói trên.

Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số: 22/BKLĐGTS ngày 06/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T, kết luận: 02(Hai) hộp sữa thực phẩm dinh dưỡng, nhãn hiệu Ensure Gold, hương Vani, loại 850g/hộp có giá 799.000 đồng/hộp x 02 hộp = 1.598.000 đồng (Một triệu năm trăm chín mươi tám nghìn đồng) và 10(Mười) hộp kem rửa mặt nhãn hiệu Pond’s FRD, loại 100g/hộp có giá 99.000 đồng/hộp x 10 hộp = 990.000 đồng (Chín trăm chín mươi nghìn đồng). Tổng cộng là 2.588.000 đồng (Hai triệu năm trăm tám mươi tám nghìn đồng).

Đối với bị hại Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ S - T (Siêu thị C) có văn bản ủy quyền cho anh Nguyễn Việt H, sinh năm 1984, có nhân khẩu thường trú xã H, huyện T, tỉnh T, hiện đang tạm trú S, khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T, là nhân viên Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ S-T (Siêu thị C) thay mặt công ty tham gia các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với vụ việc bị mất trộm nói trên. Qua làm việc, anh H đã nhận lại tài sản bị mất trộm của công ty, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Minh T là bạn quen biết với bị cáo, sau khi bị cáo nhờ anh T chở đến Siêu thị C để mua đồ dùng sinh hoạt. Việc bị cáo vào Siêu thị C để lấy trộm tài sản anh T hoàn toàn không biết nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Hiện nay, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T, ra Quyết định trả lại tài sản 02(Hai) hộp sữa thực phẩm dinh dưỡng, nhãn hiệu Ensure Gold, loại hương Vani, trọng lượng 850g/hộp; 10(Mười) hộp kem rửa mặt, nhãn hiệu Pond’s FRD, loại 100g/hộp; 01(Một) vòng dây bằng kim loại màu xám, chu vi 47cm, trên vòng dây có gắn một team từ bằng nhựa màu đen, hình tròn, đường kính 05cm; 01(Một) vòng dây bằng kim loại màu xám, chu vi 42cm, trên vòng dây có gắn một team từ bằng nhựa màu đen, hình tròn, đường kính 05cm cho anh Nguyễn Việt H người đại diện hợp pháp của Siêu thị C xong. Đồng thời, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, ra Quyết định trả lại tài sản 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A92, màu xanh; 01(Một) chai dầu gọi nhãn hiệu X-Men Luxury trọng lượng 650g; 01(Một) chai nước lau sàn nhãn hiệu Gift, trọng lượng 01lít và tiền Việt Nam: 2.240.000 đồng (Hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) cho bị cáo T xong.

Tại Bản cáo trạng số: 50/CT-VKS-HS ngày 20/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố Nguyễn Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1,2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận: Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 05/7/2022, bị cáo Nguyễn Thị Thu T đi đến Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ S - T (Siêu thị C) thuộc khóm Q, phường W, thành phố T, tỉnh T, lén lút lấy trộm tài sản gồm: 02(Hai) hộp sữa thực phẩm dinh dưỡng, nhãn hiệu Ensure Gold, hương Vani, loại 850g/hộp và 10(Mười) hộp kem rửa mặt nhãn hiệu Pond’s FRD, loại 100g/hộp Trị giá 2.588.000 đồng (Hai triệu năm trăm tám mươi tám nghìn đồng). Sau khi lấy trộm được tài sản bị cáo cất giấu vào trong người rồi đi ra ngoài khỏi quầy thu tiền thì bị anh Nguyễn Việt H, bảo vệ của Siêu thị phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và tang vật chứng đã thu giữ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Thu T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo Nguyễn Thị Thu T có nhân thân rất xấu, đã 04 lần bị Tòa án xét xử về tội “Đánh bạc và Trộm cắp tài sản”, khi chấp hành xong hình phạt tù ra ngoài xã hội bị cáo không chịu cố gắng lao động để tạo lập cho bản thân một nghề nghiệp chân chính. Ngược lại, do đua đòi lối sống vật chất, bị cáo tiếp tục thực hiện tội phạm. Hành vi của bị cáo không chỉ là tái phạm mà còn thể hiện bị cáo rất xem thường pháp luật, khước từ sự giáo dục, giúp đỡ của Nhà nước, tạo ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự địa phương. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để nhằm răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét, sau khi phạm tội đã thật thà khai báo giúp Cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án, bị cáo có cha ruột là ông Nguyễn Văn P đã từng tham gia kháng chiến và bị nhiểm chất độc hóa học. Mặt khác, hiện bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Nghĩ nên xem đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Việt H, đại diện Cty TNHH Thương mại dịch vụ S - T (Siêu thị C T) đã nhận lại được tài sản nên không có yêu cầu và xin vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với người làm chứng: Anh Nguyễn Minh T, anh Nguyễn Minh C đã có lời khai phù hợp trong hồ sơ vụ án và vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1,2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện bị hại anh Nguyễn Việt H không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu T nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2022/HS-ST

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về