Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA,TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2022/HSST ngày 23 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2022/HS – QĐSTngày 05 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2022/QĐST-HS ngày 05-9-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, đối với bị cáo:

Huỳnh Việt T, sinh năm: 1995 tại tỉnh Sóc Trăng; nơi ĐKHKTT: Bon B, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Thanh T và bà Đoàn Thị T; có vợ là H’N và có 02 con, con lớn 08 tuổi, con nhỏ 03 tuổi; tiền án: 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, cụ thể: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2021/HS-ST ngày 05-5-2021 của Toà án nhân dân thành phố G, tỉnh Đắk Nông, xử phạt 09 tháng tù; chấp hành án tại Trại tạm giam Đăk Trung - Cục C10, Bộ Công an. Ngày 18-9-2021, chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2016/HSST ngày 07/6/2016 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Trà Vinh xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 07-6-2017 chấp hành xong thời gian thử thách, đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ từ ngày 24-4-2022 sau đó chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố G - có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Trần Q; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

2. Anh K’T; địa chỉ: Bon N, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đắk Nông- vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 19-4-2022, trên đường đi làm về Huỳnh Việt T và K’T, sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú: Bon N, xã Đ, thành phố G đến nhà rẫy của anh Trần Q, sinh năm 1982 tại thôn T, xã Đ thấy khóa cửa, không có người trông coi nên cả hai nảy sinh ý định đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản.

Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, T mượn xe mô tô BKS 47N8-4223 của ông Huỳnh Trung G điều khiển chở K’T đến nhà anh Q. Đến nơi, quan sát thấy cửa bên hông nhà có khe hở nên K’T chui qua khe hở này để vào nhà, sau đó mở chốt cửa cho T vào. Tại đây, T và K’T đã trộm cắp 01 âm ly hiệu Jasaky, 02 loa thùng, 01 bình ga hiệu Đăkgas và 01 bếp ga hiệu Reeni của anh Q, sau đó cả hai dùng xe mô tô chở âm ly và 02 loa thùng về nhà rẫy của anh Đoàn Thanh N (Anh N cho T và K’T mượn để ở) cất dấu để sử dụng, còn 01 bình ga và 01 bếp ga cả hai đem cất giấu ở bụi cây phía sau nhà anh Q.

Đến khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 23-4-2022, T và K’T tiếp tục đến nhà anh Q để lấy bình ga và bếp ga đã cất dấu trước đó. Đến nơi, T đi ra phía sau nhà để lấy bình ga và bếp ga còn K’T đi vào nhà anh Q tìm kiếm thêm tài sản để trộm cắp thì bị anh Q phát hiện và làm đơn trình báo đến Công an xã Đ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐG ngày 26/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự, kết luận: Tại thời điểm ngày 19-4-2022, 01 âm ly trị giá 280.000 đồng; 02 cái loa thùng trị giá 120.000 đồng; 01 bếp ga trị giá 60.000 đồng; 01 bình ga trị giá 238.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Huỳnh Việt T và K’T trộm cắp là 698.000 đồng.

Đối với K’T, giá trị tài sản trộm cắp không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự, K’T không có tiền án, tiền sự nên ngày 27-4-2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Gia Nghĩa đã chuyển hồ sơ cho Công an thành phố Gia Nghĩa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với K’T.

Tại bản cáo trạng số: 40/CT-VKS-GN ngày 21-6-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Huỳnh Việt T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng pháp luật, không oan.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Việt T phạm tội “ Trộm cắp tài sản. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Việt T từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Anh Huỳnh Trung G cho bị cáo mượn xe mô tô nhưng không biết bị cáo mượn xe để đi trộm cắp tài sản nên đề nghị không xử lý đối với anh G.

Đối với K’T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo T nhưng tổng số tiền trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, K’T chưa có tiền án, tiền sự nên Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh K’T là đúng quy định của pháp luật.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị chấp nhận, ngày 27/4/2022 và ngày 01/6/2022 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Gia Nghĩa có Quyết định xử lý vật chứng số 16, 20/QĐ-CQĐT-ĐTTH trả lại 01 âm ly, 02 loa thùng, 01 bếp ga và 01 bình ga cho anh Trần Q; 01 xe mô tô BKS 47N8-4223 cho anh Huỳnh Trung G là các chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên đề nghị không xem xét.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa,bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, xác định được: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 19-4-2022, Huỳnh Việt T đã lén lút vào nhà anh Trần Q tại thôn T, xã Đ, thành phố G và thực hiện hành vi trộm cắp 01 âm ly, 02 loa thùng, 01 bình ga và 01 bếp ga của anh Trần Q. Tổng giá trị giá tài sản trộm cắp là 698.000 đồng, bị cáo T có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xoá án tích. Do đó, đủ căn cứ kết luận Huỳnh Việt T phạm tội “ Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”:

a) … b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

[3]. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xoá án tích. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt đủ nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của của mình; phạm tội gây thiệt hại không lớn, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần áp dụng đối với bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện tại không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Chấp nhận ngày 27-4-2022 và ngày 01-6-2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa có Quyết định xử lý vật chứng số 16, 20/QĐ-CQĐT-ĐTTH trả lại 01 âm ly, 02 loa thùng, 01 bếp ga và 01 bình ga cho anh Trần Q; 01 xe mô tô BKS 47N8-4223 cho anh Huỳnh Trung G là các chủ sở hữu hợp pháp.

[8] Đối với K’T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo T nhưng tổng số tiền trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, K’T chưa có tiền án, tiền sự nên Công an thành phố Gia Nghĩa ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 00198/QĐ-XPHC ngày 04-5-2022 đối với K’T là đúng quy định của pháp luật

[9] Đối với anh Huỳnh Trung G cho bị cáo mượn xe mô tô BKS 47N8- 4223 nhưng anh Giàu không biết bị cáo mượn xe để đi trộm cắp tài sản nên không đề cập xử lý.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông tại phiên toà là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11].Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Việt T phạm tội “ Trộm cắp tài sản

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Huỳnh Việt T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 24-4-2022.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận, ngày 27-4- 2022 và ngày 01-6-2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Gia Nghĩa có Quyết định xử lý vật chứng số 16, 20/QĐ-CQĐT-ĐTTH trả lại 01 âm ly, 02 loa thùng, 01 bếp ga và 01 bình ga cho anh Trần Q; 01 xe mô tô BKS 47N8-4223 cho anh Huỳnh Trung G là các chủ sở hữu hợp pháp.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Huỳnh Việt T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2022/HS-ST

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về