Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 73/2021/HS-ST NGÀY 07/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2021/HSST-QĐ ngày 17 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

NGÔ CHUNG T (Tên gọi khác:….), sinh năm 1986 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 07, phường Lạc Đạo, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Xuân L, sinh năm: 1953 và bà Khúc Thị K, sinh năm 1957; Chưa có vợ con; Tiền sự: Không; Tiền án:

+ Ngày 07/7/2017, bị tòa TAND thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 79/2017/HS-ST. Ngày 16/12/2017, Ngô Chung T chấp hành xong hình phạt tù.

+ Ngày 12/3/2019, bị tòa TAND thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 09/2019/HS-ST. Ngày 15/8/2020, Ngô Chung T chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo Ngô Chung T bị bắt tạm giữ ngày 31/5/2021, hiện đang đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an thị xã La Gi.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Bà Lê Thị T; (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn B, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần V, sinh năm: 1984; (Vắng mặt) Nơi cư trú: Khu phố 06, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 30/5/2021, Ngô Chung T đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến thôn Bình An 01, xã Tân Bình, thị xã La Gi, T đi vào nhà thờ Bình An thì thấy không có ai, T đi ra phía sau nhà thờ rồi mở cửa đi vào trong phòng của ông Nguyễn Thành L, sinh 1972 (Là Linh mục giá Xứ Bình An) khi vào trong phòng, T thấy trên bàn có để 01 chiếc máy tính laptop nhãn hiệu Toshiba (do chị Lê Thị T1 là chủ sở hữu) nên cầm lấy giấu vào trong người rồi đi ra ngoài. Sau khi lấy trộm được chiếc Laptop, T đem đến tiệm điện thoại “V La Gi” ở phường Phước Hội, thị xã La Gi bán cho anh Trần V, sinh 1984 với giá là 450.000 đồng. Sau khi phát hiện Laptop bị mất, Nguyễn Thành L đã làm đơn trình báo với chính quyền địa phương. Đến khoảng 18 giờ ngày 31/5/2021, hành vi phạm tội của Ngô Chung T bị phát hiện, Cơ quan CSĐT Công an thị xã La Gi đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với T, thu giữ tang vật đề xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ: 01 máy Laptop nhãn hiệu Toshiba màu đen, quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an thị xã La Gi đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Lê Thị T1.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 28/KL-ĐGTS ngày 03/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã La Gi kết luận: 01 máy Laptop nhãn hiệu Toshiba B980, màu đen đã qua sử dụng, còn hoạt động, có giá trị là 1.200.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 77/CT-VKSLG-HS ngày 26 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân thị xã La Gi đã truy tố bị cáo Ngô Chung T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Ngô Chung T đã đủ yếu tố cấu thành “Trộm cắp tài sản”. Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi giữ quyền công tố, tranh luận và phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Chung T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: Điểm b khoản 01 Điều 173; Điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Ngô Chung T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thị T1 không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo T xác định cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là không sai và không tranh luận gì và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra Công an thị xã La Gi và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra bị cáo, những người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa bị cáo không thắc mắc, khiếu nại về những hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Xét thấy người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về căn cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa nên có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 30/5/2021, tại thôn Bình An 1, xã Tân Bình, thị xã La Gi, Ngô Chung T có hành vi lấy trộm 01 Laptop nhãn hiệu Toshiba trị giá 1.200.000 đồng của bà Lê Thị T1. Sau khi lấy trộm được Laptop, T bán cho Trần V với giá là 450.000 đồng thì bị phát hiện. Hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Mặc dù trị giá tài sản chiếm đoạt là 1.200.000 đồng, nhưng Ngô Chung T đang có tiền án về tội “Trộm cặp tài sản” nên hành vi của T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 01 Điều 173 Bộ Luật hình sự. Như vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận đã truy tố đối với bị cáo T là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người đã có 02 có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Bị cáo ý thức được quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, thế nhưng vì muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài mà không phải bằng còn đường lao động chân chính nên bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản, thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân, bất chấp pháp luật. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị hại Lê Thị T1 có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và mức hình phạt do đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần phải xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo biết ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục những người khác biết tôn trọng pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.

[6] Đối với hành vi của Trần V là người đã mua tài sản trộm cắp từ bị cáo nhưng không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng: Không có vật chứng để đem ra xem xét tại phiên tòa.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thị T1, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần V không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 01 Điều 173; Điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Chung T phạm tội “Trộm cắp tài sản ”.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Chung T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 31/5/2021.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Ngô Chung T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06/10/2021); Của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 73/2021/HS-ST

Số hiệu:73/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về