Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐL - TỈNH LĐ

BẢN ÁN 71/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 44/2024/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2024/QĐXXST - HS ngày 05/3/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Mãn Văn L, sinh năm: 1987, tại: Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, Phường Hội Phú, Thành phố P, Tỉnh GL; nơi cư trú: Số 09/21 LNĐ, Phường 8, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: Lái xe; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Mãn Kim Q (đã chết) và bà: Nguyễn Thị L, (không rõ năm sinh); chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 27/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố ĐL.

- Người bị hại:

1. Chị Hoàng Thị T, sinh năm: 1977; địa chỉ: Thôn 3, xã Vạn Phúc, Huyện Thanh Trì, Thành phố HN;

2. Chị Đỗ Thị Minh Ng, sinh năm: 1983, địa chỉ: Số 14 Tr K D, Phường 8, thành phố ĐL, tỉnh LĐ;

3. Chị Vi Thị Th, sinh năm: 1984; địa chỉ: Khu 1, Phường Lê Lợi, TP Vinh, tỉnh Nghệ An;

4. Anh Hoàng Xuân S, sinh năm:1982; địa chỉ: 5/14B Võ Thị Sáu, Phường Máy Tơ, Quận Ngô Q, Thành phố H Ph;

5. Anh Nguyễn Trần Nhật H, sinh năm: 1989; địa chỉ: B1 - 5 KQH công viên Văn hóa và Đô thị, Phường 2, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ;

6. Chị Phạm Thị L, sinh năm: 1990, địa chỉ: Tổ 1, TT Quang Minh, Huyện Mê Linh, Thành phố HN;

7. Chị Hà Ngọc M, sinh năm: 1990, địa chỉ: Liên S, xã Xuân Lôi, Huyện L Thạch, Tỉnh V Ph;

8. Chị Dương Thị Thu H, sinh năm: 1979, địa chỉ: TDP Phú Thượng, TT L Thạch, Huyện L Thạch, tỉnh VPh.

(Bị cáo có mặt, những người bị hại đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 5 năm 2023, Mãn Văn L từ Thành phố P, Tỉnh GL đến thành phố ĐL, tỉnh LĐ Lm nghề lái xe taxi cho Công ty TNHH Đ (Taxi L) và ở trọ tại 9/21 LNĐ, Phường 8, thành phố ĐL, LĐ. Do ít khách, không đủ tiền chi tiêu nên L đã nảy sinh ý định đột nhập vào các biệt thự, khách sạn để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Từ ngày 08/6/2023 đến ngày 23/9/2023, L đã thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản tại thành phố ĐL, cụ thể như sau:

* Vụ thứ 1: Vào rạng sáng ngày 08/06/2023, Mãn Văn L đi bộ đến căn biệt thự địa chỉ: A23 KQH Đ T, Phường 8, thành phố ĐL, tỉnh LĐ LĐ, leo qua hàng rào từ mặt trước để vào trong khuôn viên biệt thự rồi leo lên tầng 2, đột nhập vào bên trong qua cửa thông gió nhà vệ sinh mở cửa đi vào phòng ngủ 202 thấy chị Hoàng Thị T đang ngủ trên giường. L lén lút tìm kiếm tài sản và lấy được một giỏ xách để trên bàn gần giường ngủ rồi đi lên tầng 3 của căn nhà vào phòng ngủ 303 lục tìm tài sản trong giỏ xách thấy có tiền, điện thoại và giấy tờ bên trong. L lấy số tiền mặt 5.000.000đ (năm triệu đồng) còn lại giấy tờ, điện thoại, túi xách L để lại tại phòng 303 rồi thoát ra ngoài theo lối cũ (BL: 46-51, 105-106, 142-165).

Bị hại: Chị Hoàng Thị T, sinh năm: 1977, HKTT: Thôn 3, xã Vạn Phúc - Thanh Trì - HN bị trộm cắp số tiền 5.000.000đ. Chị T yêu cầu bồi thường số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) (BL: 105-106).

* Vụ thứ 2: Vào rạng sáng ngày 04/7/2023, Mãn Văn L đi bộ từ phòng trọ đến căn nhà địa chỉ 14 Tr K D, Phường 8, thành phố ĐL, Tỉnh LĐ, leo tường rào mặt trước vào trong khuôn viên nhà, rồi leo lên tầng lầu đột nhập vào bên trong. L đi vào một phòng ngủ, lục tìm tài sản lấy được cái bóp trong một túi quần rồi đi sang phòng thờ, L kiểm tra bóp lấy được 10.000.000đ (mười triệu đồng) rồi để bóp tại phòng thờ sau đó tẩu thoát theo lối cũ (BL: 46-51, 107-108, 142-165).

Bị hại: Chị Đỗ Thị Minh Ng, sinh năm: 1983, địa chỉ: Số 14 Tr K D, Phường 8, thành phố ĐL, tỉnh LĐ, khai bị chiếm đoạt số tiền 16.000.000đ. Chị Ng trình bày bị mất số tiền 16.000.000đ, ngoài lời khai của chị Ng không còn căn cứ nào khác để chứng minh nên chỉ đủ cơ sở để kết luận L đã trộm cắp số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) trong vụ trộm cắp trên. Chị Ng yêu cầu được bồi thường số tiền 16.000.000đ (mười sáu triệu đồng) (BL: 107-108).

* Vụ thứ 3: Vào rạng sáng ngày 28/08/2023, Mãn Văn L đột nhập vào khuôn viên khách sạn Sugar Ld, địa chỉ: B34 KQH công viên Văn hóa và Đô thị, Phường 2, thành phố ĐL, Tỉnh LĐ, leo lên tầng hai rồi đột nhập vào phòng ngủ 201 thông qua cửa thông gió nhà vệ sinh thấy trong phòng có chị Vi Thị Th cùng bạn đang ngủ trên giường. L thấy giỏ xách và ví để trên bàn gần giường ngủ thì lén lút đến mở giỏ xách ra lấy được số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng), mở ví lấy được số tiền 6.000.000đ (sáu triệu đồng) và 03 tờ tiền Đài Loan mệnh giá 1000 Đài tệ mỗi tờ, rồi thoát ra ngoài theo lối cũ (bút lục: 46-51, 109-114, 142-165).

Bị hại: Chị Vi Thị Th, sinh năm: 1984, địa chỉ: Khu 1, Phường Lê Lợi, TP Vinh, tỉnh Nghệ An bị trộm cắp số tiền 8.000.000đ và 3.000 Đài tệ. Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 175/KL-HĐĐG ngày 20/11/2023 xác định 3.000 (ba nghìn) đài tệ (đô la Đài Loan), tại thời điểm ngày 28/8/2023 có giá trị L 2.047.980đ (hai triệu không trăm bốn mươi bảy nghìn chín trăm tám mươi đồng). Chị Th đã nhận lại 3.000 Đài tệ và yêu cầu được bồi thường số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng) (BL: 109-114).

* Vụ thứ 4: Vào rạng sáng ngày 04/09/2023, Mãn Văn L đi bộ đến khách sạn Lưu Ly, địa chỉ: B3-13 Khu quy hoạch Công viên Văn hóa và Đô thị, Phường 2, thành phố ĐL, Tỉnh LĐ, đột nhập vào phòng ngủ 208 thông qua cửa thông gió nhà vệ sinh thấy trong phòng có anh Hoàng Xuân S đang ngủ cùng vợ và con. L lục tìm tài sản lấy được một điện thoại hiệu samsung A31 và 3.000.000đ tiền mặt trong túi quần treo trên móc ở trong phòng rồi thoát ra ngoài theo lối cũ. Do sợ bị phát hiện nên L đã vứt chiếc điện thoại vào thùng rác trên đường LNĐ, Phường 8, thành phố ĐL, chiếc điện thoại này không thu hồi được (BL: 46-51, 15-119, 142-165).

Bị hại: Anh Hoàng Xuân S, sinh năm:1982, địa chỉ: 5/14B Võ Thị Sáu, Phường Máy Tơ, Quận Ngô Q, TP. H Ph khai bị trộm cắp số tiền 3.000.000đ và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiện Samsung Galaxy A31 màu đen, 128GB, điện thoại mua vào tháng 6/2021, đã qua sử dụng. Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 175/KL-HĐĐG ngày 20/11/2023 xác định chiếc điện thoại trên có có giá trị L 1.600.000đ (một triệu sáu trăm nghìn đồng). Anh S trình bày bị mất số tiền 7.000.000đ (bảy triệu đồng), ngoài lời khai của anh S không còn căn cứ nào khác để chứng minh nên chỉ đủ cơ sở để kết luận L đã trộm cắp số tiền 3.000.000đ và 01 điện thoại trong vụ trộm cắp trên. Anh S yêu cầu được bồi thường tổng cộng số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) gồm 7.000.000đ tiền mặt bị mất và 3.000.000đ tương ứng trị giá điện thoại (BL: 115-119, 46-51).

* Vụ thứ 5: Vào khoảng 00 giờ ngày 23/9/2023, Mãn Văn L lái taxi đi từ nhà trọ đến khu vực Golf Valley, Phường 2, thành phố ĐL và đậu xe tại đây. Đến khoảng 01h30 cùng ngày, L đi bộ đến trước ngôi nhà địa chỉ B1 – 5 KQH Công viên Văn hóa và Đô thị Phường 2, thành phố ĐL, Tỉnh LĐ leo qua hàng rào ở mặt trước đột nhập vào trong khuôn viên ngôi nhà rồi chui qua lỗ thông gió vào bên trong ngôi nhà. Khi vào bên trong, L mở cửa đi vào phòng khách, lục tìm nhưng không có tài sản gì nên đi lên tầng lầu vào phòng ngủ, nghe có tiếng người ho, nghĩ người này thức giấc nên L đi trở ra rồi qua phòng ngủ đối diện thấy có một cái ví của anh Nguyễn Trần Nhật H để trên bàn nên đã cầm lấy đi xuống bếp mở bóp lấy được 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) và 100 USD (một trăm đô la Mỹ), L để bóp tại bếp rồi thoát ra ngoài theo lối cũ (BL: 46-51, 120-124, 142-165).

Bị hại: Anh Nguyễn Trần Nhật H, sinh năm: 1989; địa chỉ: B1 - 5 KQH công viên Văn hóa và Đô thị Phường 2, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ bị trộm cắp 500.000đ và 01 tờ tiền Đô la Mỹ mệnh giá 100 USD. Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 175/KL-HĐĐG ngày 20/11/2023 xác định 100 USD (một trăm đô la Mỹ), có giá trị L 2.406.000đ (hai triệu bốn trăm lẻ sáu nghìn đồng). Anh H đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu bồi thường nào khác. (BL: 120-124, 46-51) * Vụ thứ 6: Sau khi thực hiện vụ trộm cắp tại nhà B1 - 5 Khu quy hoạch công viên Văn hóa và Đô thị Phường 2, thành phố ĐL, Tỉnh LĐ, L đi chân đất đến trước khách sạn Sugar Ld, địa chỉ B34 Khu quy hoạch Công viên Văn hóa và Đô thị Phường 2, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ. L leo lên bờ tường hàng rào giữa khách sạn SugarLd và nhà bên cạnh, men theo bờ tường rồi leo qua mái hiên của khách sạn, đột nhập vào phòng 205 qua cửa thông gió nhà vệ sinh thấy có 03 người đang ngủ trong phòng. L lén lút lấy 02 giỏ xách để trên bàn và 01 giỏ xách để trong ngăn kéo. Sau khi lấy 03 giỏ xách, L thoát ra ngoài sang nhà bên theo lối cũ. Tại khuôn viên nhà bên cạnh, L mở các giỏ xách ra kiểm tra thấy có 10.500.000 đồng (mười triệu năm trăm nghìn đồng) tiền mặt, 03 nhẫn vàng và 02 lắc vàng cùng giấy tờ tùy thân của các chị Phạm Thị L, Hà Ngọc M, Dương Thị Thu H, L lấy tiền và vàng còn giấy tờ và giỏ xách L ném vào trong khuôn viên khách sạn. Sau đó L leo rào qua nhà phía sau rồi đi lại chỗ đậu xe taxi lấy áo khoác và dép rồi lái taxi chạy về phòng trọ ngủ. Tài sản trộm cắp của vụ thứ 5 và vụ thứ 6 L mang về cất giấu tại phòng trọ (BL: 46-51, 125-141, 142-165).

Bị hại: Chị Phạm Thị L, sinh năm: 1990, địa chỉ: Tổ 1, TT Quang Minh, Huyện Mê Linh, TP HN bị trộm cắp số tiền 3.000.000đ, 01 dây kim loại màu vàng trên dây có họa tiết hình trái tim; 01 dây kim loại màu vàng trên dây có 28 viên kim loại màu xám và màu vàng, - Chị Hà Ngọc M, sinh năm: 1989, địa chỉ: Thôn Liên S, xã Xuân Lôi, Huyện L Thạch, V Ph, bị trộm cắp số tiền 4.500.000đ và 03 nhẫn trơn màu vàng có chữ “H-KHAI 10 9999”.

- Chị Dương Thị Thu H, sinh năm: 1979, địa chỉ: TDP Phú Thượng, TT L Thạch, Huyện L Thạch, tỉnh VPh bị trộm cắp 3.000.000đ tiền mặt.

Vật chứng thu giữ:

- Tạm giữ của Mãn Văn L những đồ vật, tài liệu như sau:

+ Tiền Việt Nam: 11.000.000đ (mười một triệu đồng).

+ 01 (một) tờ tiền Đô la Mỹ mệnh giá 100 USD, số sê ri: PE 24582325 A.

+ 03 (ba) nhẫn trơn bằng kim loại màu vàng, bên trong có chữ H - KHAI 10 9999.

+ 01 (một) dây kim loại màu vàng, trên dây kim loại có gắn những chi tiết bằng kim loại màu vàng có hình trái tim.

+ 01 (một) dây kim loại màu vàng, có gắn 28 viên kim loại hình cầu màu xám và màu vàng.

+ 01 (một) quần tây vải màu đen, bên trong có nhãn hiệu VIỆT TIẾN.

+ 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng, trên vai áo bên trái có đường viền màu đen, có chữ GIVENCHY.

Các tài sản trên L vật chứng trong vụ trộm cắp thứ 5 và thứ 6 + 03 (ba) tờ tiền Đài Loan mệnh giá 1000, Số sê ri như sau: QY135681CR, TX090386FR, RW509503DK. Tài sản trên L vật chứng trong vụ trộm cắp thứ 3 + 01 (một) căn cước công dân số 019087016720, tên Mãn Văn L.

+ 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, số 640165000X, tên Mãn Văn L.

+ 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2, số 640165000X, tên Mãn Văn L.

+ 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số thẻ 4524 0418 9981 X, tên MAN VAN L.

+ 01 (một) thẻ ATM ngân hàng PVCom bank số thẻ 9704 1256 0229 X, tên MAN VAN L.

+ 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV số thẻ 9704 1800 0002 6295 X, tên MAN VAN L.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 352497332692971 (không kiểm tra chất lượng điện thoại).

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, dạng phím bấm, số IMEI 352055020503544, không kiểm tra chất lượng điện thoại.

- Tạm giữ từ anh Nguyễn Trần Nhật H, sinh năm: 1989; địa chỉ: B1 - 5 KQH công viên Văn hóa và Đô thị, Phường 2, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ: 01 (một) USB nhãn hiệu Kingston màu trắng bạc dung lượng 8Gb, bên trong có chứa dữ liệu điện tử hình ảnh về đối tượng trộm cắp tài sản xảy ra vào ngày 23/9/2023 tại địa chỉ B1 - 5 KQH công viên văn hóa và đô thị Phường 2, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ được lưu kèm hồ sơ vụ án.

- Tạm giữ từ chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm: 1983, địa chỉ: 688 Quang Trung, TT Phù Mỹ - Phù Mỹ - B Đ (quản lý khách sạn Lưu Ly): 01 (một) USB màu đen chứa dữ liệu điện tử liên quan đến vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 04/9/2023 tại khách sạn Lưu Ly, địa chỉ: B3-13 KQH công viên Văn hóa và Đô thị Phường 2, thành phố ĐL - LĐ, được lưu tại hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 175/KL-HĐĐG ngày 20/11/2023 xác định:

- Tại thời điểm ngày 23/9/2023:

+ 01 (một) nhẫn trơn bằng kim loại màu vàng, bên trong có chữ H- KHAI 10 9999, tổng khối lượng 3,7492g, có chứa thành phần kim loại vàng, hàm lượng trung bình 97,62% có giá trị L 5.730.000đ (năm triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng).

+ 01 (một) nhẫn trơn bằng kim loại màu vàng, bên trong có chữ H – KHAI 10 9999, tổng khối lượng 3,7536g, có chứa thành phần kim loại vàng, hàm lượng trung bình 97,62% có giá trị L 5.730.000đ (năm triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng).

+ 01 (một) nhẫn trơn bằng kim loại màu vàng, bên trong có chữ H – KHAI 10 9999, tổng khối lượng 3,7583g, có chứa thành phần kim loại vàng, hàm lượng trung bình 98,56% có giá trị L 5.730.000đ (năm triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng).

+ 01 (một) sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, trên dây có đính nhiều chi tiết bằng kim loại màu vàng có hình trái tim và đính hạt màu trắng, tổng khối lượng 3,3457g, có chứa các thành phần kim loại như sau: Đồng, hàm lượng trung bình 75,01%, Kẽm, hàm lượng trung bình 9,71%, Niken, hàm lượng trung bình 15,27%, do L trang sức mỹ ký nên không còn giá trị.

+ 01 (một) sợi vòng tay bằng kim loại màu vàng, trên vòng có đính 28 hạt kim loại màu xám, màu vàng và màu đồng, tổng khối lượng 19,2184g, có chứa các thành phần kim loại như sau: Vàng, hàm lượng vàng trung bình 0,32%, Đồng, hàm lượng trung bình 80.78%, Kẽm, hàm lượng trung bình 2,24%, Niken, hàm lượng trung bình 14,88%, do L trang sức mỹ ký nên không còn giá trị.

Các bị hại L, H, M đã nhận lại tiền và trang sức bị trộm cắp và không có yêu cầu bồi thường (BL: 46-51, 125-141).

Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 23/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL truy tố bị cáo Mãn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, cáo Mãn Văn L khai nhận, trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2023, L đã 06 lần đột nhập qua cửa thông gió hoặc cửa sổ không khóa vào các khách sạn, biệt thự trên địa bàn thành phố ĐL trộm cắp tài sản gồm tiền mặt, tiền đôla Mỹ, vàng và trang sức của nhiều người như cáo trạng truy tố L hoàn toàn chính xác, bị cáo không thắc mắc khiếu nại gì đối với cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Mãn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị áp dụng khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mãn Văn L từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải trả lại cho chị Hoàng Thị T số tiền tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng); chị Đỗ Thị Minh Ng số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng); chị Vi Thị Th số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng) và anh Hoàng Xuân S số tiền 6.000.000 (sáu triệu đồng) Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo 01 (một) quần tây vải màu đen, bên trong có nhãn hiệu VIỆT TIẾN; 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng, trên vai áo bên trái có đường viền màu đen, có chữ GIVENCHY; 01 (một) căn cước công dân số 019087016720, tên Mãn Văn L; 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, số 640165000X, tên Mãn Văn L; 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2, số 640165000X, tên Mãn Văn L; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số thẻ 4524 0418 9981 X, tên MAN VAN L; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng PVCom bank số thẻ 9704 1256 0229 X, tên MAN VAN L; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV số thẻ 9704 1800 0002 6295 X, tên MAN VAN L; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 352497332692971 (không kiểm tra chất lượng điện thoại); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, dạng phím bấm, số IMEI 352055020503544, không kiểm tra chất lượng điện thoại.

Lưu lại hồ sơ vụ án 01 (một) USB nhãn hiệu Kingston màu trắng bạc dung lượng 8Gb, bên trong có chứa dữ liệu điện tử hình ảnh về đối tượng trộm cắp tài sản xảy ra vào ngày 23/9/2023 tại địa chỉ B1 - 5 KQH công viên văn hóa và đô thị Phường 2, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ, thu giữ của anh Nguyễn Trần Nhật H và 01 (một) USB màu đen chứa dữ liệu điện tử liên quan đến vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 04/9/2023 tại khách sạn Lưu Ly, địa chỉ: B3-13 KQH công viên Văn hóa và Đô thị Phường 2, thành phố ĐL, tỉnh LĐ, thu giữ chị Nguyễn Thị Mỹ H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố ĐL, tỉnh LĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Mãn Văn L: Mãn Văn L từ Thành phố P, Tỉnh GL đến thành phố ĐL, tỉnh LĐ Lm nghề lái xe taxi cho Công ty TNHH Đ (Taxi L) và ở trọ tại 9/21 LNĐ, Phường 8, thành phố ĐL, LĐ. Do không đủ tiền chi tiêu nên L đã nảy sinh ý định đột nhập vào các biệt thự, khách sạn để trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Từ ngày 08/6/2023 đến ngày 23/9/2023, L đã 06 lần đột nhập qua cửa thông gió hoặc cửa sổ không khóa vào các khách sạn, biệt thự trên địa bàn thành phố ĐL trộm cắp tài sản, cụ thể: Trộm cắp của chị Hoàng Thị T số tiền 5.000.000đ; của chị Đỗ Thị Minh Ng số tiền 10.000.000đ; của chị Vi Thị Th số tiền 8.000.000đ và 3.000 Đài tệ; của anh Hoàng Xuân S số tiền 3.000.000đ và 01 điện thoại trị giá 1.600.000đ; của anh Nguyễn Trần Nhật H số tiền 500.000đ và 100 USD; của chị Phạm Thị L, Hà Ngọc M, Dương Thị Thu H số tiền 10.500.000đ, 03 nhẫn vàng; 02 dây trang sức mỹ ký.

Tổng tài sản Mãn Văn L chiếm đoạt có giá trị L 60.243.980đ (sáu mươi triệu, hai trăm bốn mươi ba nghìn, chín trăm tám mươi đồng).

[3] Xét thấy, bị cáo Mãn Văn L L người đã trưởng thành và có đầy đủ năng lực về trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo biết rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác L vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nhằm thỏa mãn cho nhu cầu tiêu xài của cá nhân. Hành vi phạm tội của Mãn Văn L rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh, bị phát hiện hay không, với thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội vào thời gian khoảng từ 2 đến 3 giờ sáng trèo vào cửa thông gió đột nhập vào trong nhà và mặc dù nhìn thấy nhiều người đang ngủ nhưng bị cáo vẫn bất chấp nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến Q sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của người bị hại, người liên quan trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Mãn Văn L phạm về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự như cáo trạng số 66/CT-VKS - ĐL ngày 23/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa L hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự L tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Mãn Văn L phạm tội sáu lần, mỗi lần đều đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, đây L tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, các chị Vi Thị Th, Phan Thị L, Hà Ngọc M và Dương Thị Thu H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yếu cầu gì thêm. Riêng chị Hoàng Thị T yêu cầu bồi thường số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng); chị Đỗ Thị Minh Ng yêu cầu bồi thường số tiền 16.000.000đ (mười sáu triệu đồng); chị Vi Thị Th yêu cầu bồi thường số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng); anh Hoàng Xuân S yêu cầu bồi thường số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng). Tại phiên tòa, bị cáo chỉ đồng ý bồi thường đủ số tiền đã xác định bị chiếm đoạt gồm: Chị T số Tiền 5.000.000 đồng, chị Ng số tiền 10.000.000 đồng, anh S số tiền 3.000.000 đồng bị chiếm đoạt và chiếc điện thoại với số tiền 3.000.000 đồng, tổng công L 6.000.000 đồng. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải bồi thường lại số tiền này cho những người bị hại L phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 (một) quần tây vải màu đen, bên trong có nhãn hiệu VIỆT TIẾN; 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng, trên vai áo bên trái có đường viền màu đen, có chữ GIVENCHY; 01 (một) căn cước công dân số 019087016720, tên Mãn Văn L; 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, số 640165000X, tên Mãn Văn L; 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2, số 640165000X, tên Mãn Văn L; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số thẻ 4524 0418 9981 X, tên MAN VAN L; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng PVCom bank số thẻ 9704 1256 0229 X, tên MAN VAN L và 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV số thẻ 9704 1800 0002 6295 X, tên MAN VAN L; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 352497332692971 (không kiểm tra chất lượng điện thoại) và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, dạng phím bấm, số IMEI 352055020503544, không kiểm tra chất lượng điện thoại. Xét thấy, không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và thi hành án nên trả cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo L phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Mãn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mãn Văn L 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 27/9/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 585; các Điều 586 và 589 của Bộ luật dân sự, buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho những người bị hại gồm:

2.1. Chị Hoàng Thị T tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng);

2.2. Chị Đỗ Thị Minh Ng số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng);

2.2. Chị Vi Thị Th số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng);

2.3. Anh Hoàng Xuân S số tiền 6.000.000đ (sáu triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án (chị T, chị Ng, chị Th và anh S) có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án (bị cáo L) còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, 3.1. Trả cho bị cáo:

- 01 (một) quần tây vải màu đem, bên trong có nhãn hiệu Viết Tiến - 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng, trên vai áo bên trái có đường viền màu đen có chữ GIVENCHY - 01 (một) căn cước công dân số 0190870165000X, tên Mãn Văn L;

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, số 640165000X, tên Mãn Văn L;

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2, số 640165000X, tên Mãn Văn L;

- 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietcombank số thẻ 4524 0418 9981 X, tên MAN VAN L;

- 01 (một) thẻ ATM ngân hàng PVCom bank số thẻ 9704 1256 0229 X, tên MAN VAN L - 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV số thẻ 9704 1800 0002 6295 X, tên MAN VAN L.

3.2. Trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 352497332692971 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, dạng phím bấm, số IMEI 352055020503544 (không kiểm tra chất lượng điện thoại) nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 24/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố ĐL và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố ĐL).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Mãn Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.450.000đ (một triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Q kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được Q Lm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng những người bị hại vắng mặt có Q kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có Q thoả thuận thi hành án, Q yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2024/HS-ST

Số hiệu:71/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về