Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 07 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 61/2022/TLST-HS ngày 24/06/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2022/QĐXXST-HS ngày 15/07/2022 đối với bị cáo:

Hoàng Minh N, sinh năm 1994. Giới tính: nam. Nơi sinh: huyện K, tỉnh Ninh Bình. Đăng ký HKTT: xóm 6, xã C, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: khối 1, thị trấn B, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh;

Tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12.

Bố đẻ: không xác định; Mẹ đẻ : Hoàng Thị Y, sinh năm: 1970; hiện đang cư trú ở xóm 6, xã C, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: chưa có.

Tiền sự: Không; Bị cáo có 03 tiền án gồm:

+ Bản án số 07/2017/HS-ST ngày 15/3/2017, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội " Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2009, chưa được xóa án tích.

+ Bản án số 71/2020/HS-ST ngày 28/4/2020 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hà Nội xử phạt 8 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích.

+ Bản án số 37/2020/HSST ngày 10/7/2020, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù, truy thu 3.000.000 đồng về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp hình phạt tại bản án số 71/2020/HSST ngày 28/4/2020 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hà Nội buộc chấp hành hình phạt 20 tháng tù. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/202, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/03/2022 đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1989; trú tại: xóm 5, xã K, huyện K. Tại phiên tòa vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Hoàng Khắc T, anh Nguyễn Văn Đ – đều vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Là người nghiện nên Hoàng Minh N có ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/3/2022; N được người đàn ông tên T1, quen biết ngoài xã hội, không rõ lai lịch, địa chỉ; điều khiển xe mô tô chở N đi đến khu vực đê B III thuộc địa phận xã K, huyện K. Cả hai phát hiện chiếc xe máy biển kiểm soát 35FA-7044 của anh Nguyễn Văn C đang dựng ở ven đường. Quan sát thấy không có ai trông coi nên T1 điều khiển xe lại gần, sau đó T1 dừng xe và lấy trong túi áo chiếc tuốt nơ vít dài khoảng 20 cm đập dẹt một đầu có tay nắm cao su bằng nhựa màu vàng đưa cho N. N đi bộ đến cạnh chiếc xe máy 35FA-7044, dùng tuốt nơ vít chọc vào ổ khóa điện vặn và mở được khóa. N đưa lại tuốt nơ vít cho T1 rồi nổ máy điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được còn T1 điều khiển xe của mình đi về phía đường để B II. Cùng lúc đó anh C phát hiện sự việc liền đuổi theo và truy hô. N điều khiển xe chạy được khoảng 700 m thì bị lực lượng bộ đội đồn biên phòng huyện K và người dân đuổi theo bắt giữ; còn T1 đã điều khiển xe máy chạy thoát. Lực lượng bộ đội đồn Biên phòng huyện K đã tiến hành lập biên bản sự việc, thu giữ tang vật gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 35FA-7044 nhãn hiệu MAJESTY, màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu xanh không còn phần nhựa trên màn hình, phần vỏ nhựa có một số vết nứt vỡ, số Imei 351859074363478; 01 tay cầm tuốt nơ vít bằng nhựa trong suốt.

Ngày 03/3/2022, Đồn biên phòng K đã chuyển tin báo tội phạm nêu trên cùng vật chứng đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K để xác minh giải quyết theo thẩm quyền.

Kết luận định giá tài sản số 04/KLĐG ngày 03/03/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: Chiếc xe máy biển kiểm soát 35FA-7044 nhãn hiệu MAJESTY trị giá 2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Chiếc xe máy biển kiểm soát 35FA-7044 thu giữ đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả lại cho anh Nguyễn Văn C. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia số Imei 351859074363478; 01 tay cầm tuốt nơ vít bằng nhựa trong suốt thu giữ của Hoàng Minh N được chuyển từ kho vật chứng Công an huyện K đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K để giải quyết cùng vụ án. Đối với chiếc tuốt nơ vít đã được đập dẹp một đầu dài khoảng 20 cm có tay nắm cao su bằng nhựa màu vàng sau khi sử dụng để trộm cắp chiếc xe, N đưa lại cho người đàn ông tên T1; do T1 đã bỏ trốn do đó CQĐT công an huyện K không thu giữ được.

Về vấn đề dân sự: người bị hại anh Nguyễn Văn C đã nhận được tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu, đề nghị gì nên vấn đề dân sự không đặt ra trong vụ án này.

Bản cáo trạng số 68/CT-VKS ngày 23/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Hoàng Minh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX:

-Tuyên bố: Hoàng Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, khoản 1 Điều 51 Điều BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo từ 27 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/03/2022.

- Căn cứ Điều 47 BLHS 2015; Điều 106, 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14:

- Tịch thu tiêu hủy 01 tay cầm tuốt nơ vít bằng nhựa trong suốt thu giữ của Hoàng Minh N.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc điện thoại đã thu giữ của bị cáo Hoàng Minh N.

- Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã được Hội đồng xét xử tóm tắt nêu trên, không có ý kiến bào chữa, không có ý kiến tranh luận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Minh N khai nhận hành vi của mình thực hiện như tóm tắt nội dung vụ án của Tòa án; Lời khai nhận của bị cáo phù hợp biên bản sự việc của Đồn biên phòng 104 lập hồi 11 giờ ngày 02/03/2022, lời khai của người bị hại, người làm chứng; còn phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét công khai tại phiên tòa hôm nay như: Kết luận định giá tài sản số 04/KLĐG ngày 03/03/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: Chiếc xe máy biển kiểm soát 35FA-7044 nhãn hiệu MAJESTY trị giá 2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Từ những chứng cứ đó, đã có đầy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/03/2022, tại xóm 5, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; lợi dụng sơ hở trong việc trông coi, quản lý tài sản của chủ sở hữu; bị cáo Hoàng Minh N đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe biển kiểm soát 35FA-7044 của anh Nguyễn Văn Công có giá trị là 2.700.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp “tài sản có trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000 đồng” Bị cáo Hoàng Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản” trong khi Bản án số 37/2020/HSST ngày 10/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội mới là phạm tội thuộc trường hợp “ Tái phạm nguy hiểm” đươc quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

“Điều 173. Tội Trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm….

2. phạm tội thuộc nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt phạt tù từ 03 tháng đến 07 năm….

g, Tái phạm nguy hiểm…” Như vậy Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kim Sơn truy tố bị cáo Hoàng Minh Ngọc về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hình phạt đối với bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi đó của bị cáo cần được xử lý nghiêm.

Tình tiết tăng nặng:tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” đã được sử dụng là tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo; do đó bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình phạt.

Căn cứ mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện HĐXX thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục cải tạo bị cáo cũng như răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Đối với đối tượng tên là T1 tham gia cùng bị cáo trộm cắp tài sản với bị cáo Ngọc; do bị cáo Ngọc quen biết ngoài xã hội, không rõ lai lịch, địa chỉ, vì vậy CQCSĐT công an huyện K đã tách ra để điều tra xác minh xử lý sau

[4] Về trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu, đề nghị gì; nên Hội đồng xét xử không xem xét về vấn đề này.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 35FA-7044 nhãn hiệu MAJESTY, màu xanh mà bị cáo trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại; việc trả lại tài sản này của Công an huyện K là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét về vấn đề này.

Đối với 01 tay cầm tuốt nơ vít bằng nhựa trong suốt thu giữ của Hoàng Minh N không phải là công cụ phạm tội, bị cáo không nhận lại, là vật không có giá trị, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia thu giữ của Hoàng Minh N là tài sản riêng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho bị cáo; tuy nhiên chiếc điện thoại đã bị hư hỏng, tại phiên tòa bị cáo không nhận lại; do đó cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện K; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình:

Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm g khoản 2 điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

1.Tuyên bố bị cáo Hoàng Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Xử phạt bị cáo Hoàng Minh N 30 (ba mươi) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 03/03/2022.

3. xử lý vật chứng:

- Tich thu tiêu hủy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu xanh, số Imei 351859074363478, 01 tay cầm tuốt nơ vít bằng nhựa trong suốt.

( chi tiết vật chứng như trong biên bản bàn giao giữa Cơ quan điều tra và chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 23/06/2022).

4. Buộc bị cáo Hoàng Minh N phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2022/HS-ST

Số hiệu:71/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về