TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 68/2022/HS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm, trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và điểm cầu thành phần, Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 và Thông báo thay đổi lịch xét xử vụ án án hình sự số 62/TB-TA ngày 24 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo: Hoàng Quý Q, sinh ngày 08/9/1992 tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình;
Nơi cư trú: thôn Cộng Hòa, xã M1 Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam;
tôn giáo: Thiên chúa giáo; Q tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn V, sinh năm 1961 và bà M Thị M1, sinh năm 1961; vợ, con: chưa có; Tiền sự: Không.
Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2017/HS-ST ngày 01/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt Hoàng Quý Q 04 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/8/2017. Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt Hoàng Quý Q 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/5/2020.
Nhân thân: Năm 2011 tham gia nghĩa vụ quân sự đến năm 2013 xuất ngũ về địa phương.
Bị bắt truy nã và tạm giữ từ ngày 21/5/2022 đến 24/5/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (Bị cáo có mặt tại phiên toà)
- Bị hại: Anh Quản Thế T, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Thái Bình (có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người làm chứng:
+ Chị Đặng Thị Như H, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Thái Bình
+ Chị Lê Thị Hồng M, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn Th, xã Th, huyện Đ, tỉnh Thái Bình
+ Bà M Thị M1, sinh năm 1961 và ông Hoàng Văn V, sinh năm 1961; Đều cư trú: Thôn C, xã M, huyện H, tỉnh Thái Bình (Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 24/6/2021, Hoàng Quý Q điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh, biển kiểm soát 17K4-xxxx đến cửa hàng điện thoại “Thế T” ở thôn Tư La, xã M1 Khai, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình do anh Quản Thế T làm chủ cửa hàng để mua điện thoại. Anh T đưa cho Q xem 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu đen, trị giá 4.900.000 đồng. Điện thoại này hết pin nên anh T cắm sạc và để điện thoại OPPO A92 trên mặt tủ kính và lấy điện thoại khác cho Q xem. Do có việc nên anh T đi ra ngoài và gọi vợ là chị Đặng Thị Như H ra trông cửa hàng. Khi Q đang xem điện thoại thì chị H lại đi vào phía sau nhà để tắt bếp đang đun. Lợi dụng lúc đó không có người trông coi, Q đã cầm điện thoại OPPO A92 bỏ vào túi quần đang mặc và điều khiển xe mô tô đem chiếc điện thoại vừa lấy được về nhà để ở đầu giường trong phòng khách. Khi bị mất chiếc điện thoại OPPO A92, anh T đã đến Công an xã M1 Khai, huyện Hưng Hà để trình báo sự việc. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, biết Q đã trộm cắp điện thoại nên bà M Thị M1 là mẹ đẻ Q đã cùng Q đem đến trả lại chiếc điện thoại cho anh T. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Hoàng Quý Q đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc điện thoại của anh T nhưng sau đó Q đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 21/5/2022, Q bị phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Bình bắt theo Quyết định truy nã.
Bản kết luận định giá tài sản số 29/KLĐG ngày 06/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hưng Hà, kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu đen, kiểu máy CPH2059, số IMEI 1 “0867511050185071”, số IMEI 2 “0867511050185063” bộ nhớ 128GB, không có thẻ sim tại thời điểm xâm hại có trị giá 4.900.000 đồng.
Bản cáo trạng số 65/CT-VKSHH ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã truy tố Hoàng Quý Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Quý Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Hoàng Quý Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy 01(một) chiếc quần vải, dạng quần soóc, màu xanh, trên quần có dán logo dòng chữ “adidas”, đã cũ và đã qua sử dụng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản và có lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo; bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp lời khai của bị hại; người làm chứng và toàn bộ chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: khoảng 10 giờ ngày 24/6/2021, tại cửa hàng điện thoại “Thế T” ở thôn Tư La, xã M1 Khai, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Hoàng Quý Q đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu đen, trị giá 4.900.000 đồng của anh Quản Thế T. Bị cáo Q đang có 02 tiền án, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi cố ý trộm cắp tài sản nên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điều 173: Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
…..
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm a) Có tổ chức;
…..
g) Tái phạm nguy hiểm;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội: Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo đang có hai tiền án nhưng bị cáo không nhận thức và cải tạo bản thân, đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, thể hiện ý thức coi thường pháp luật.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo đã trả lại tài sản trộm cắp cho bị hại; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo thành khẩn khai báo và có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Từ những căn cứ trên, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị cáo trộm cắp và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra giải quyết.
[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 (một) chiếc quần vải, dạng quần soóc, màu xanh, trên quần có dán logo dòng chữ “adidas”, đã cũ và đã qua sử dụng; bị cáo không có yêu cầu nhận lại, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Quý Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm b, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Hoàng Quý Q 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc quần vải, dạng quần soóc, màu xanh, trên quần có dán logo dòng chữ “adidas”, đã cũ và đã qua sử dụng.
Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày 03/8/2022.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Q hội quy định về án phí, lệ phí Toà án Bị cáo Hoàng Quý Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 68/2022/HS-ST
Số hiệu: | 68/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về