Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67A/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Phan T, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 67A/2021/HSST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 78/2021/QĐXXST-HS ngày 04/5/2021 đối với bị cáo:

Lê Văn T– sinh năm 1995 tại tỉnh Bình Thuận, tên gọi khác: Tiến. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 4, phường Đ, thành phố P , tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: làm thuê ; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Lê Văn H – sinh năm: 1971, nghề nghiệp: buôn bán và bà Nguyễn Thị Ngọc T , sinh năm: 1978, nghề nghiệp: buôn bán, nơi cư trú: khu phố B, phường L, thành phố T, tỉnh T; Vợ: Dương Thị Thanh T , sinh năm 1993 , nghề nghiệp: buôn bán, nơi cư trú: khu phố ST, thị trấn C, huyện P, tỉnh T.

Tiền án: Tại bản án số 20/2020/HS-ST ngày 24/3/2020 Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xử phạt bị cáo Lê Văn T 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 13/9/2020 (chưa được xóa án tích).

Bị cáo Lê Văn T bị bắt tạm giam từ ngày 16/2/2021 tại nhà tạm giữ công an thành phố Phan T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

- Ông Nguyễn Văn H - sinh năm: 1998 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn Tiến A, xã Tiến Th, thành phố Phan T.

- Ông Nguyễn Khắc V- sinh năm: 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố 4, phường Đức Th, thành phố Phan T.

- Bà Nguyễn Thị H1 - sinh năm: 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố 7, phường Lạc Đ, thành phố Phan T.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị Ngọc T – sinh năm 1978 (có mặt).

Địa chỉ: khu phố 4, phường Đức L, thành phố Phan T, tỉnh Bình Thuận .

+ Ông Trịnh T2 - sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: khu phố 4, phường Đức Th, thành phố Phan T, tỉnh Bình Thuận.

+ Ông Đào Ngọc T3 - sinh năm 1994 (vắng mặt).

Địa chỉ: khu phố 7, phường Phú Thủy, thành phố Phan T, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 29/01/2021 đến ngày 14/02/2021, Lê Văn T đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan T như sau:

Vụ 1: theo thỏa thuận giữa cha, mẹ Lê Văn T với ông Nguyễn Văn H, khoảng 18 giờ 00 phút ngày 29/01/2021, Lê Văn T cùng với Nguyễn Thanh M, Nguyễn Văn L, Dương Văn L1 và Nguyễn Trường V đến nhà ông H để dựng rạp thôi nôi cho con ông H. Đến khoảng 18 giờ 45 phút cùng ngày, khi đang dựng rạp thì Thanh quan sát thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1 – 829.48 của ông H đang dựng trước sân nhà, trên xe có gắn sẵn chìa khóa nên Thanh đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô trên. Quan sát xung quanh không thấy ông H và không thấy ai để ý nên Thanh đã lén lút đi lại gần chiếc xe nổ máy điều khiển xe nhanh chóng tẩu thoát. Sau khi chiếm đoạt chiếc xe trên, Thanh điều khiển xe đến hẻm gần nhà của mình ở khu phố 4, phường Đức Long cất giấu đợi đến tối đem đi cầm thế lấy tiền.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, ông Nguyễn Văn H phát hiện bị mất tài sản nên đã đến Công an xã Tiến Th trình báo sự việc. Qua xác minh, xác định: Lê Văn T là người đã trộm cắp chiếc xe trên của ông H nên Công an xã Tiến Th đã mời Thanh đến trụ sở để làm việc. Tại đây, Thanh đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đồng thời giao nộp chiếc xe mô tô trên cho Cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 32 ngày 15/02/2021 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan T kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1 – 829.48, số khung: 2605GY361173, số máy: KC26E1207726, trị giá: 30.800.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan T đã trả lại tài sản trên cho ông H và đương sự không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Vụ 2: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/02/2021, Lê Văn T điều khiển xe mô tô biển số 86C1- 196.17 đi ngang qua nhà ông Nguyễn Khắc V thì phát hiện thấy có 01 chiếc xe mô tô biển số 86B4 – 226.32 của ông V đang dựng trước nhà, trên xe có gắn sẵn chìa khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, Thanh điều khiển xe mô tô của Thanh dựng ở một con hẻm gần đó rồi đi bộ lại gần chiếc xe mô tô biển số 86B4 – 226.32 của ông V. Thanh quan sát xung quanh không có ai nên ngồi lên xe, nổ máy rồi nhanh chóng tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được chiếc xe mô tô trên, Thanh liên hệ với ông Trịnh T2 và nói muốn cầm thế chiếc xe mô tô trên thì ông T2 đồng ý. Cả hai hẹn gặp nhau tại trước cổng trường Nguyễn Đình Chiểu thuộc phường Đức Long, thành phố Phan T để trao đổi. Tại đây, ông T2 hỏi nguồn gốc chiếc xe thì Thanh nói đây là xe của nhà Thanh, giấy tờ xe bị mất chưa làm lại được. Thấy vậy, ông T2 tin tưởng và đồng ý cầm thế chiếc xe mô tô trên cho Thanh với giá 3.000.000 đồng. Số tiền có được, Thanh đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông V đã đến Công an phường Đức Th trình báo sự việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 43 ngày 01/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan T kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 86B4 - 226.32, số máy: 5C6K-129257, số khung: RLCS5C6K0DY129237, trị giá: 11.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan T đã thu giữ chiếc xe mô tô biển số 86B4 - 226.32 từ ông Trịnh T2 và trả lại tài sản trên cho bị hại. Ông V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Ông Trịnh T2 yêu cầu Thanh trả lại số tiền cầm thế chiếc xe là 3.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Ngọc T là mẹ của Thanh đã trả lại số tiền trên cho ông T2.

Vụ 3 : Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 14/02/2021, Thanh điều khiển xe mô tô biển số 86C1- 196.17 đi ngang qua hẽm đường Vạn Thuỷ Tú ở thuộc khu phố 4, phường Đức Th, thành phố Phan T thì phát hiện có 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1- 240.75 của bà Nguyễn Thị H1 đang dựng bên hông đường hẻm, không có người trông coi nên Thanh nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên của bà H1 bán lấy tiền tiêu xài. Thanh dựng xe mô tô biển số 86C1- 196.17 cách khoảng một đoạn rồi đi bộ đến gần chiếc xe mô tô biển số 86C1- 240.75, dùng chìa khóa xe của Thanh mở khóa xe của bà H1 rồi điều khiển xe nhanh chóng tẩu thoát. Sau khi lấy được chiếc xe mô tô trên, Thanh gặp đối tượng tên Huy (không rõ nhân thân, Thanh quen ở tiệm bắn cá) và hỏi Huy chỗ bán xe thì Huy chỉ Thanh đến gặp ông Đào Ngọc T3 . Tại đây, Thanh nói với ông T3 cho Thanh mượn tiền nhưng ông T3 không đồng ý nên Thanh nói sẽ để lại chiếc xe mô tô biển số 86C1 – 240.75 để ông T3 làm tin và cho Thanh mượn tiền. Lúc này, Thanh nói với ông T3 là xe của nhà Thanh. Do quen biết Thanh và thấy xe có chìa khóa nên ông T3 tin tưởng và cầm thế chiếc xe trên với giá 1.800.000 đồng. Sau khi cầm thế xong, Thanh đi bộ ra tìm Huy và nhờ Huy chở về lại chỗ cũ để Thanh lấy chiếc xe mô tô biển số 86C1-196.17. Sau khi lấy xe xong, Thanh điều khiển xe đến quán cà phê ở cầu 40 thuộc xã Tiến Lợi, thành phố Phan T gặp Huy và trả cho Huy 1.400.000 đồng mà Thanh đã nợ của Huy trước đó, còn lại 400.000 đồng Thanh đã tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, bà H1 đã đến Công an phường Đức Th trình báo sự việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 45/KL-HĐĐG ngày 01/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Phan T kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1 – 240.75, số máy: C641DY052084, số khung: 5C641052101, trị giá 12.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng của vụ án (thu giữ từ ông Đào Ngọc T3): Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan T đã trả lại xe mô tô biển số 86C1-240.75 cho bị hại bà Nguyễn Thị H1 và đương sự không có yêu cầu gì thêm về dân sự. Ông Đào Ngọc T3 yêu cầu Thanh trả lại số tiền cầm thế chiếc xe là 1.800.000 đồng, bà Nguyễn Thị Ngọc T đã trả lại số tiền trên cho ông T3.

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 27/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan T đã truy tố đối với bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên, tái phạm theo điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 30 tháng tù đến 42 tháng tù.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa, không tranh luận với Kiểm sát viên và đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố Phan T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thể hiện tại hồ sơ đều hợp pháp. Trước khi mở phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên HĐXX giải quyết vắng mặt đương sự.

[2] Về căn cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Văn T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong khoảng thời gian từ ngày 29/01/2021 đến ngày 14/02/2021 trên địa bàn thành phố Phan T cụ thể như sau:

- Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 29/01/2021, Lê Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1 – 829.48 trị giá 30.800.000 đồng của ông Nguyễn Văn H tại thôn Tiến Bình, xã Tiến Th, thành phố Phan T.

- Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/02/2021, Lê Văn T lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 86B4 – 226.32 của ông Nguyễn Khắc V đang dựng trước nhà, trên xe có gắn sẵn chìa khóa trị giá 11.000.000 đồng tại khu phố 4, phường Đức Th, thành phố Phan T.

- Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 14/02/2021, Lê Văn T lại tiếp tục có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 86C1- 240.75 trị giá 12.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị H1 tại khu phố 4, phường Đức Th, thành phố Phan T.

Tổng trị giá tài sản Lê Văn T chiếm đoạt được định giá là 53.800.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 20/2020/HS-ST ngày 24/3/2020 Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xử phạt bị cáo Lê Văn T 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 13/9/2020. Như vậy Lê Văn T phạm tội trong trường hợp chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo 03 lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản mà mỗi lần đều đủ cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: HĐXX xem xét cho bị cáo khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình khắc phục hậu quả, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Vì muốn nhanh chóng có tiền tiêu sài, không bằng con đường lao động chân chính nên Lê Văn T đã 03 lần trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó HĐXX cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm và giáo dục bị cáo để trở thành người tốt, có ích cho xã hội.

[7] Đối với ông Trịnh T2 và ông Đào Ngọc T3 là những người đã nhận cầm cố xe cho Thanh nhưng không biết rõ nguồn gốc tài sản là do Thanh phạm tội mà có. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan T không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với đương sự về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là phù hợp. Đối với đối tượng tên Huy, người đã chỉ Thanh đi cầm thế xe và là người mà Thanh đã trả 1.400.000 đồng (là số tiền do Thanh phạm tội mà có). Tuy nhiên, do không xác định được nhân thân của Huy nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 86C1- 196.17 chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Ngọc T. Việc Thanh điều khiển xe mô tô trên đi trộm cắp tài sản thì bà T không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan T đã trả lại chiếc xe trên cho bà T. Bà T đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì về dân sự.

[8] Về phần bồi thường thiệt hại về dân sự: bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét.

[9] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn Cứ: điểm c khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

* Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 30 tháng tù ( ba mươi tháng tù). Thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/02/2021.

* Về án phí: áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/5/2021). Quyền kháng cáo bản án của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67A/2021/HSST

Số hiệu:67A/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về