TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 04/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, Thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 73/2023/TLST - HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2023/QĐXXST - HS, ngày 27 tháng 11 năm 2023 đối với:
Bị cáo Lê Thị Lan D, sinh năm 1991 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn Tầm H, xã Quang L, huyện P, Thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Lê Thị T; chồng là Lê Văn P và 02 con (lớn 09 tuổi, nhỏ 08 tuổi); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
- Bị hại: Ông Lê Văn H, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1963; đều trú tại: Thôn Tầm H, xã Quang L, huyện P, Thành phố H. Đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Thị Lan D sinh sống cùng chồng là anh Lê Văn P, sinh năm 1990 và bố mẹ chồng là ông Lê Văn H, sinh năm 1962, bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1963 tại thôn Tầm H, xã Quang Lãng, huyện P, Thành phố H. Khoảng 06 giờ ngày 24/10/2023, vợ chồng ông H, bà V rời khỏi nhà đi làm ruộng. Lúc này D ở phòng ngủ đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của ông H, bà V nên đã điều khiển camera ghi hình trong nhà quay vào tường. Khoảng 07 giờ cùng ngày, D cùng chồng là anh Lê Văn P ra khỏi nhà, trước khi đi D đóng aptomat tắt hệ thống điện trong nhà để camera ghi hình không hoạt động. D chở anh P đi ăn sáng ở ngã tư thôn M, xã Quang L rồi đi xe máy một mình đến Trường mầm non xã T để làm việc. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, D mượn xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 90D1 - xxxxx của chị Trần Thị L (là nhân viên cùng trường mần mon T với D) để đi về nhà. Khi về đến nhà, D không đi xe máy qua cổng chính mà đi đường lách phía sau nhà, dựng xe máy ở sát bên phải nhà và đi vào trong nhà theo hướng cửa gian phòng khách. Do biết vợ chồng ông H, bà V thường để tiền ở ngăn tủ chè tại phòng khách nên D đã lấy 01 chiếc tuốc lơ vít ở kệ tủ cậy cánh tủ chè nhưng không được. D nhớ ra chìa khóa tủ này bố mẹ chồng thường treo ở trong phòng để đồ nên đã vào tìm thấy chìa khóa treo trên chiếc đinh. D lấy chìa khoá mở cánh tủ ra, thấy có 02 hộp kim loại, hộp nhỏ màu đỏ, hộp to màu vàng. D mở hộp nhỏ thấy bên trong có nhiều tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng nên lấy toàn bộ số tiền này nhét vào túi áo khoác đang mặc rồi đóng cánh tủ cất chìa khóa vào vị trí ban đầu. Sau đó, D đi đến trường mầm non T bỏ số tiền này vào cốp xe máy Lead biển kiểm soát 29Y7 - xxxxx của mình. Đến khoảng 10 giờ 30 cùng ngày vợ chồng ông H, bà V đi làm về phát hiện bị mất trộm số tiền 20.000.000 đồng để ở ngăn tủ chè nên đã trình báo Công an xã Quang Lãng, huyện P. Đến 16 giờ cùng ngày, D nhận thức được về hành vi vi phạm của mình nên đã đến Công an xã Quang L tự thú, giao nộp số tiền đã trộm cắp 20.000.000 đồng để trả lại cho ông Huân, bà Vui.
Quá trình tố tụng, cơ quan điều tra đã trao trả lại cho vợ chồng ông H, bà V số tiền bị trộm cắp 20.000.000 đồng.
Tại Quyết định truy tố số 02/QĐ - VKS ngày 20/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Lê Thị Lan D về tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Quyết định truy tố đã nêu.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện P giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 173; các điểm i, n, r, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung, đồng thời buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tranh luận tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận Quyết định truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân, không có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xin giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên... trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về nội dụng vụ án:
Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung Quyết định đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của bị hại, của những người làm chứng và của chính bị cáo trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ như: Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Sơ đồ hiện trường, Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú, Biên bản và bản ảnh thực nghiệm điều tra, Biên bản thu giữ vật chứng...có đủ căn cứ để khẳng định: Do cần tiền ăn tiêu nên sáng ngày 24/10/2023 lợi dụng lúc không ai ở nhà, Lê Thị Lan D đã thực hiện các hành vi tắt camera ghi hình của gia đình, cậy mở tủ chè nén lút trộm cắp số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) của bố mẹ chồng là ông Lê Văn H, bà Nguyễn Thị V ở thôn Tầm H, xã Quang L, huyện P, Thành phố H. Với các hành vi nêu trên, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Lê Thị Lan D ra trước Tòa để xét xử về tội Trộm cắp tài sản là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật, tội danh và hình phạt quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ đã không chỉ trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương…Vì vậy cần phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự với một hình phạt tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
Tuy nhiên, lượng hình cần xem xét đến việc bị cáo sau khi phạm tội đã tự thú, giao nộp lại toàn bộ số tiền trộm để cắp khắc phục hậu quả; quá trình tố tụng thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội trong lúc đang có thai; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có bố đẻ quá trình công tác tại địa phương được tặng thưởng nhiều giấy khen, danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở...là những tình tiết quy định tại các điểm b, i, n, r, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Do bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng và đang mang thai, lại tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần cải tạo, giáo dục bị cáo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương, của gia đình cũng đủ để bị cáo nhận thức rõ sai lầm của mình mà tu tỉnh về sau.
Do bị cáo kinh tế khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền cũng như khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.
Đối chị Trần Thị L là người có D mượn xe máy ngày 24/10/2023 nhưng không biết D sử dụng để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện P không đề cập xử lý là có căn cứ.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản trộm cắp là số tiền 20.000.000 đồng đã trả lại cho bị hại ông Lê Văn H, bà Nguyễn Thị V, phía bị hại không yêu cầu bồi thường nên trách nhiệm dân sự không đặt ra trong vụ án này.
Ngoài hình phạt, bị cáo còn phải chịu khoản tiền án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Lan D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, n. r, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự, xử:
Phạt bị cáo Lê Thị Lan D 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện P, Thành phố H nhận được Quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Lê Thị Lan Di cho Ủy ban nhân dân xã Quang L, huyện P, Thành phố H kết hợp với gia đình bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo.
3. Áp dụng Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
Buộc bị cáo Lê Thị Lan D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, báo bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2023/HS-ST
Số hiệu: | 67/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về