Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KS, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2023/TLST- HS ngày 07 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo: Họ và tên:

Xồng Xái G; tên gọi khác: không; Sinh ngày 01/5/1981 tại xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản H, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Xồng Pà D (đã chết) và bà Già Y H; có vợ là Lầu Y C và 05 (năm) con; Tiền án, tiền sự: không; bị bắt từ ngày 14/7/2023 (bắt theo quyết định truy nã), hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Các bị hại:

1, Ông Cụt Phò Ch, sinh năm 1963; Nơi cư trú: bản P, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Có mặt.

2, Bà Hoa Thị L, sinh năm 1991; Nơi cư trú: bản P, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Mùa Chồng T; Sinh năm 1963; Nơi cư trú: bản P1, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Có mặt;

2. Ông Mùa Bá D1; Sinh năm 1996; nơi cư trú: bản P1, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt;

- Người làm chứng:

1. Ông Và Bá D2; sinh năm 1986; nơi cư trú: Bản PN, xã MT, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

2. Moong Văn D3; sinh năm 1980; nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

3. Xồng Vả T; sinh năm 1988; nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

- Người phiên dịch: Bà Lầu YV; Nơi cư trú: bản ML1, xã L, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo cáo trạng số 73/CT-VKS-KS ngày 06/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện KS, tỉnh Nghệ An thì bị cáo Xồng Xái G đã có hành vi trộm cắp tài sản và bị truy tố theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa, bị cáo Xồng Xái G đã thừa nhận có hành vi trộm cắp tài sản với các tình tiết đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Vào khoảng 16 giờ ngày 20/11/2016, Xồng Xái G sinh năm 1981 và Xồng Bá K sinh năm 1992, cùng trú tại bản H, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An đi chài cá đến khu vực bản P, xã M, huyện KS thì gặp một đàn bò khoảng bốn đến năm con bò đang ăn cỏ không có người trông coi nên Xồng Xái G nảy sinh ý định bắt trộm bò để bán lấy tiền tiêu xài và rủ Xồng Bá K cùng trộm bò và được Xồng Bá K đồng ý. Sau đó Xồng Xái G và Xồng Bá K đi lấy dây rừng rồi để ý lúc không có ai khác, Xồng Xái G và Xồng Bá K lén lút mỗi người bắt trộm một con bò, trong đó có một con cái đang chửa có lông màu đỏ và một con bò cái đang chửa có lông màu vàng bạc, dắt về nuôi nhốt tại khu vực làm rẫy của Xồng Xái G ở bản H, xã M để chờ thời cơ tìm cách tiêu thụ.

Ngày 27/11/2016, Xồng Xái G biết được hai cha con Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 đều trú tại bản P1, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An muốn mua bò nên Xồng Xái G và Xóng Bá Khư đã bán hai con bò trên cho Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 với số tiền 23.000.000đ (hai mươi ba triệu đồng). Số tiền bán bò, Xồng Xái G và Xồng Bá K chia đôi mỗi người được 11.500.000đ (mười một triệu năm trăm nghìn đồng) rồi ai về nhà người ấy ngủ.

Đến khoảng 04 giờ sáng ngày 28/11/2016, anh Và Bá D2 là Công an viên bản Phò Nọi, xã MT, huyện KS phát hiện anh Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 có dắt 02 (hai) con bò cái đi qua bản PN, xã M gồm: 01 (Một) con bò cái, khoảng 04 năm tuổi, có lông màu đỏ, sừng dài khoảng 10 cm và 01 (một) con bò cái khoảng 8 năm, có lông màu vàng bạc, sừng dài khoảng 22cm. Anh Và Bá D2 hỏi Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 dắt bò của ai thì Mùa Chồng T trả lời là bò của cha con ông mới mua được, tuy nhiên qua kiểm tra không có giấy tờ mua bán nên anh Và Bá D2 yêu cầu Mùa Chồng T mời người bán bò đến làm thủ tục mua bán theo quy định. Khi Xồng Xái G được Mùa Chồng gọi đến nhưng qua trao đổi giữa hai bên không làm được giấy tờ mua bán nên Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 đã trả lại bò cho Xồng Xái G và yêu cầu trả lại số tiền đã mua bò, Xồng Xái G đồng ý và lấy lại số tiền với Xồng Bá K đã chia trước đó trả lại cho cha con Mùa Chồng T. Sau khi trả lại số tiền cho hai cha con Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 thì Xồng Bá K đi xe máy về trước còn Xồng Xái G dắt bò đi về sau. Trên đường đi về, sợ lực lượng chức năng phát hiện việc trộm bò nên Xồng Xái G đã thả 02 (hai) con bò đó vào rừng rồi đi về nhà. Nghi ngờ 02 (hai) con bò trên là do Xồng Xái G trộm cắp nên anh Và Bá D2 đi theo được khoảng 2 km thì thấy Xồng Xái G cắt dây thả bò rồi chạy vào rừng nên anh Và Bá D2 đã báo cho lực lượng công an xã và dắt 02 (hai) con bò trên về bản để làm rõ vụ việc. Sau khi về đến nhà, do lo sợ vụ việc bị phát hiện nên Xồng Xái G đã bỏ trốn sang huyện Viêng Thoong, tỉnh Bolykhămxay, nước CHDCND Lào. Ngày 09/02/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện KS đã ra quyết định truy truy nã đối với Xồng Xái G, đến ngày 14/7/2023, Xồng Xái G đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện KS bắt giữ theo quyết định truy nã.

Ngày 07/12/2016, Cơ quan CSĐT Công an huyện KS đã có Công văn số 01 để yêu cầu Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân huyện KS định giá 01 con bò cái, khoảng 04 (bốn) năm tuổi, có lông màu đỏ, sừng dài khoảng 10cm; 01 con bò cái, khoảng 08 (tám) năm tuổi, có lông màu vàng bạc, sừng dài khoảng 22cm.

Tại kết luận định giá tài sản ngày 09/12/2016của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện KS thể hiện:

- 01 con bò cái, khoảng 04 (bốn) năm tuổi, có lông màu đỏ, sừng dài khoảng 10cm tại thời điểm bị mất trộm có giá 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng);

- 01 con bò cái, khoảng 08 (tám) năm tuổi, có lông màu vàng bạc, sừng dài khoảng 22cm tại thời điểm bị mất trộm có giá 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).

Tổng trị giá tài sản được định giá là 27.000.000đ (Hai mươi bảy triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, Xồng Xái G đã thành khẩn khai nhận hành vi của mình, mục đích trộm cắp bò là để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Quá trình điều tra đã xác định được 02 con bò bị Xồng Xái G trộm cắp ngày 20/11/2016 là của ông Cụt Phò Ch (sinh năm 1963, trú tại bản P, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An) 01 con và của bà Hoa Thị L (sinh năm 1991, trú tại bản P, xã M, huyện KS, tỉnh Nghệ An) 01 con. Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Xồng Xái G phạm tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) để xử phạt bị cáo Xồng Xái G từ 12 (Mười hai) đến 16 (Mười sáu) tháng tù; đề nghị giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị hại gồm ông Cụt Phò Ch và bà Hoa Thị L đã nhận lại tài sản bị mất vì vậy tại phiên tòa những người bị hại không có yêu cầu gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, tại phiên tòacũng như trong quá trình điều đều khẳng định: Việc anh mua bò của Xồng Xái G nhưng không biết bò đó là do trộm cắp mà có, số tiền mua bò đã được Xồng Xái G trả lại, do đó không yêu cầu gì thêm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, bị cáo nhận tội và mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Do hành vi của bị cáo thực hiện tại thời điểm Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) đang còn có hiệu lực, vì vậy để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo theo Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên cần áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) để xét xử bị cáo.

[3] Về hành vi vi phạm của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo Xồng Xái G đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng, vật chứng thu giữ và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng truy tố. Như vậy đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 16 giờ ngày 20/11/2016, Xồng Xái G đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 (Hai) con bò của ông Cụt Phò Ch và bà Hoa Thị L, có trị giá là 27.000.000đ (Hai mươi bảy triệu đồng). Vì vậy, hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để dùng thủ đoạn lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, đã xâm phạm đến quyền sỡ hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, hoang mang trong quần chúng. Ngoài ra, khi bị phát hiện hành vi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn gây cản trở cho quá trình điều tra, xử lý vụ án, cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với Xồng Xái G. Do đó cần tuyên phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).

[5] Đối với Mùa Chồng T và Mùa Bá D1 là người mua bò của Xồng Xái G không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên không đủ căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự.

[6] Trách nhiệm dân sự: Các bị hại gồm ông Cụt Phò Ch và bà Hoa Thị L đã nhận lại tài sản bị mất, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Mùa Chồng T và ông Mùa Bá D1 đã nhận lại số tiền đã mua vì vậy những người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên Tòa miễn xét.

[7] Về đối tượng có liên quan: Trong vụ án này, theo lời khai của bị cáo Xồng Xái G thì còn có đối tượng Xồng Bá K cùng tham gia trộm cắp tài sản với bị cáo. Quá trình điều tra xác định đối tượng này còn có tên gọi khác là  Xồng Vả Ch và Xồng Vả T, sinh ngày 03/2/1992, tuy nhiên sau khi vụ án xảy ra Xồng Bá K đã bỏ trốn cho đến nay vẫn chưa có mặt tại địa phương nên chưa thu thập được lời khai, chứng cứ, vì vậy Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý.

[8] Về vật chứng vụ án: 01 con bò cái, khoảng 04 (bốn) năm tuổi, có lông màu đỏ, sừng dài khoảng 10cm đã trả lại cho chủ sở hữu là Cụt Phò Ch và 01 con bò cái, khoảng 08 (tám) năm tuổi, có lông màu vàng bạc, sừng dài khoảng 22cm đã được trả lại cho chủ sở hữu là bà Hoa Thị L là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[10] Về kháng cáo: Bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 138, các điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung 2009): Tuyên bố bị cáo Xồng Xái G phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Xồng Xái G 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt (ngày 14/7/2023) 2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Xồng Xái G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm..

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo, các bị hại có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/9/2023); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án về phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/9/2023). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án về phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về