TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 67/2020/HS-PT NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 08 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 71/2020/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn T, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ.
- Bị cáo bị kháng nghị:
Nguyễn Văn T, sinh năm: 1992; nơi cư trú: thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960 và bà Lương Thị T1, sinh năm 1963; có vợ là Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1997 và hai con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ ba; tiền sự: không; tiền án: ngày 28/11/2019, bị Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Đ, xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng (bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2019 đến ngày 15/11/2019).
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 03/5/2020 đến nay. “Có mặt”
- Bị hại: Anh Đoàn Văn Th, sinh năm: 1987; Nơi cư trú: Đội 6, xã L, huyện T, tỉnh Đ. “Vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 08/4/2020, Nguyễn Văn T đi xe đạp từ nhà đến xã L, huyện T, mục đích xem có nhà nào sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà anh Đoàn Văn Th, T quan sát thấy cửa ra vào khép hờ không khóa, T dựng xe đạp ở ngoài đường rồi đi bộ trèo lên tường bao đu người vào cây na xuống sân nhà anh Th. T đi đến cửa ra vào dùng tay mở cánh cửa gỗ bên trái rồi lẻn vào trong nhà, thấy mọi người đang ngủ say. Thông qua ánh sáng của đồng hồ điện tử treo trên tường, T quan sát thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo của anh Th đang cắm sạc để ở đầu giường. T đến phía đầu giường rút sạc sau đó cầm cả điện thoại và sạc đưa ra ngoài. Lúc này, anh Th đang ngủ trong giường tỉnh dậy phát hiện thấy T đang trộm điện thoại di động của mình thì bật dậy truy hô: “trộm, trộm” và đuổi theo. Thấy vậy, T bỏ chạy ra ngoài theo lối đã vào và ném điện thoại gần khu vực cửa ra vào. Khi chạy ra khỏi nhà anh Th được khoảng 30m thì T bị anh Th đuổi kịp bắt giữ, sau đó anh Th giao T cho Công an xã Liêm Hải lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ:
Thu trên nền nhà cách cửa ra vào 1m trong nhà anh Đoàn Văn Th 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, 01 cục sạc điện thoại di động màu đen (dây sạc vẫn cắm vào điện thoại);
Thu trên đường xóm dốc cống Mỏ Cò cách cổng 20m là 01 xe đạp khung nữ màu xanh đã cũ.
Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T phát hiện thu giữ 01 ví da màu nâu bên trong có: 01 thẻ Căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ngân hàng AGRIBANK đều mang tên Trần Đình Ngh; 01 thẻ ngân hàng AGRIBANK mang tên Lê Thị Huyền Tr; 01 thẻ khách hàng điện lực mang tên Bùi Ngọc V. (Nguyễn Văn T khai nhận khoảng đầu năm 2019 T xuống Ki ốt 35 bãi tắm Q thị trấn Q, huyện G, tỉnh Đ chơi. Tại đây T đã lấy trộm chiếc ví da màu nâu của anh Trần Đình Ngh, sinh năm: 1988 ở Đội 10, xã X, huyện X, tỉnh Đ là người làm tại Kiot để trong hộc bàn uống nước tại phòng khách của Kiot trong ví có giấy tờ tùy thân của anh Ngh và một số tiền chưa xác định được là bao nhiêu). Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã thông báo đồng thời chuyển hồ sơ cùng toàn bộ giấy tờ thu khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn T cho Công an huyện Giao Thủy xác minh điều tra về hành vi trộm cắp của T tại Ki ốt 35 bãi tắm Q để xử lý theo quy định.
Bản kết luận định giá tài sản số 06 ngày 14/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện T xác định: 01 Chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Vivo và 01chiếc sạc điện thoại Nokia tổng trị giá là: 1.850.000đ (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).
Đối với chiếc điện thoại di động Vivo và chiếc sạc điện thoại là tài sản của anh Đoàn Văn Th. Sau khi định giá cơ quan Công an đã bàn giao lại cho anh Th quản lý. Anh Th đã nhận số tài sản trên và không có yêu cầu gì khác.
Chiếc xe đạp Nguyễn Văn T dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản là xe của bà Lương Thị T1 là mẹ đẻ của . Bà T1 để chiếc xe đạp ở nhà, T đã tự ý lấy xe đi, bà T1 không biết việc T lấy xe đi trộm cắp tài sản. Sau khi xác minh Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã trả lại chiếc xe đạp cho bà T1 quản lý, sử dụng, bà T1 không có yêu cầu, đề nghị gì khác.
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Với nội dung vụ án nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2020/HSST ngày 3-6-2020 của Toà án nhân dân huyện T, đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 56 BLHS; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Tổng hợp hình phạt với bản án số 70/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 27 (hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 5 năm 2020.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại.
Ngày 09/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện T quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-KSĐT với nội dung: Kháng nghị một phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng giảm hình phạt đối với bị cáo (giảm 2 tháng 14 ngày là thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2019 đến ngày 15/11/2019 của Bản án số 70/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ kết luận về vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T 2 tháng 14 ngày là thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2019 đến ngày 15/11/2019 của Bản án số 70/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện T.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về phần thủ tục: Quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ ban hành theo đúng qui định tại Điều 336, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập và qua quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, xét thấy Tòa án nhân dân huyện T đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T: Tại bản hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 15 tháng tù, tổng hợp hình phạt với bản án số 70/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo chuyển thành 12 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/5/2020. Trong khi đó bị cáo T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2019 đến ngày 15/11/2019 của bản án số 70/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện T. Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 30/6/2020 của TAND huyện T khi tổng hợp hình phạt chung của cả hai bản án không trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam của bản án trước, đã vi phạm khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự. Vì vậy, quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ có căn cứ chấp nhận. HĐXX, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng Hình sự chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đ, sửa bản án sơ thẩm.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”
2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38; Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Tổng hợp hình phạt với bản án số 70/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện T, đã xử bị cáo 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo nay chuyển thành 12 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 27 (hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 5 năm 2020. Bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2019 đến ngày 15/11/2019.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 67/2020/HS-PT
Số hiệu: | 67/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về