Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 65/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lY số: 60/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2024/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

1/ Họ và tên: Cà Văn Y - Sinh năm 1996; Giới tính: Nam;

HKTT: Bản Ph, xã M, huyện T, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Cà Văn Ch sinh năm 1963; Họ và tên mẹ: Cà Thị M, sinh năm 1964; Gia đình bị can có 07 chị em, bị can là con thứ 07; Vợ: Cà Thị Kh, sinh năm 1997; Con: Có 01 con, sinh năm 2017.

- Tiền án: Tại bản án số 34/2021/HSST ngày 08/4/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xử 27 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 54 tháng về tội “Cố Y gây thương tích” - Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 04/10/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. (có mặt tại phiên tòa)

2/ Họ và tên: Đặng Văn L (tên ngọi khác Vi Văn Đặt) - Sinh năm 1993; Giới tính: Nam;

HKTT: Bản Cảnh Khỉn, xã Yên Hòa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Đặng Văn Oanh, sinh năm 1969 (đã chết); Họ và tên mẹ: Vi Thị Vân Chiều, sinh năm 1971; Gia đình bị can có 2 anh em, bị can là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại bản án số 279 ngày 01/11/2019, Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ra trại ngày 08/10/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 04/10/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. (có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại:

1/ Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 2001 HKTT: Thôn N, xã B, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. (có mặt)

2/ Chị Dương Thị Tr, sinh năm 2002 HKTT: Thôn C, xã Q, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. (vắng mặt)

3/ Anh Đặng Quang M, sinh năm 1970; HKTT: Thôn Y, xã P, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. (có mặt)

4/ Anh Đậu Xuân D, sinh năm 2002; HKTT: Thôn Đ, xã T, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 04/10/2023, quá trình tuần tra tại khu đất mới, Bãi Ré thuộc thôn Đình Cả, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Công an xã Nội Duệ phát hiện Cà Văn Y và Đặng Văn L, hiện trọ tại xã Nội Duệ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, không gắn biển kiểm soát nên đã yêu cầu dừng xe để tiến kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra Y và L không xuất trình được giấy tờ đăng kY chứng M nguồn gốc xe nên đã đưa Y và L về trụ sở làm việc. Quá trình làm việc Y và L khai nhận chiếc xe trên là do Y và L trộm cắp vào ngày 30/9/2023 tại một phòng trọ ở thôn Đại Trung, xã Đại Đồng, huyện Tiên Du. Ngoài ra, Y và L còn khai nhận thực hiện các vụ trộm cắp tài sản khác trên địa bàn huyện Tiên Du trong các ngày từ 25/9/2023 đến 30/9/2023.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm rõ được như sau: L và Y là đối tượng nghiện ma túy. L và Y quen biết nhau từ khoảng tháng 9 năm 2023, do không có công việc ổn định để có tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy để sử dụng cho bản thân, Y và L cùng rủ nhau đi trộm cắp xe mô tô tại các phòng trọ trên địa bàn huyện Tiên Du sau đó bán lấy tiền.

Ngày 25/9/2023, Đặng Văn L đã thực hiện 01 hành vi trộm cắp tài sản một mình như sau: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 25/9/2023, do không liên hệ được với Y để rủ đi trộm cắp nên L đã đi bộ lang thang một mình đến thôn Đình Cả mục đích để trộm cắp tài sản, khi đi L mang theo 2 chiếc chìa khoá nhãn hiệu Honda do L nhặt được từ trước. Khi L đi đến khu nhà trọ do bà Ngô Thị Thuận, sinh năm 1977 ở xóm Đông, thôn Đình Cả (do trước đây L đã đến để tìm phòng trọ nên biết phòng trọ có tài sản để sơ hở), L thấy cổng khu nhà trọ này có 2 cánh mở vào bên trong, nên L đi vào bên trong xem có người không sau đó, L ngồi bên ngoài cửa một lúc thấy không có ai, nên L đi ra chỗ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ - đen BKS:97B1- X (đây là xe của chị Nguyễn Thị D, sinh năm 2001 có hộ khẩu thường trú ở thôn N, xã B, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Cạn hiện thuê trọ nhà bà Thuận) dựng gần gốc cây khế, xe không khóa cổ, khóa càng dựng chân chống phụ nên L quyết định trộm cắp chiếc xe trên. L ngồi lên xe và dùng hai chân đẩy xe ra ngoài, khi đi ra ngoài cổng thì L lấy chiếc chìa khóa L mang theo từ trước ra tra vào ổ khóa thì mở được khóa điện của xe và L điều khiển chiếc xe này đi ra khu vực bến xe thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh bán cho một người nam thanh niên không quen biết được 1.300.000 đ. Số tiền này L đã mua ma túy để sử dụng và chi tiêu cá nhân hết.

Ngoài ra, trong các ngày từ 27/9/2023 đến 30/9/2023, Y và L đã 03 lần cùng nhau thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Tối ngày 26/9/2023, Y có đến phòng trọ chơi với L sau đó ngủ lại. Tại phòng trọ của L, Y và L rủ nhau đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 5 giờ 45 phút ngày 27/9/2023 L với Y đi bộ từ phòng trọ của L qua KCN Tiên Sơn để vào thôn Núi Móng, xã Hoàn Sơn mục đích trộm cắp tài sản. Khi cả hai đi qua cầu Móng một đoạn thì phát hiện phía bên phải có khu nhà trọ của gia đình chị Vũ Thị L, sinh năm 1981 để nhiều xe môt tô ở bên trong, bên ngoài cạnh cổng là cửa hàng tạp hóa của nhà trọ, nên L với Y thống nhất Y đi vào trộm cắp xe còn L sẽ vào cửa hàng tạp hoá mua đồ mục đích cảnh giới và để chủ nhà không phát hiện. Khi Y đi vào trong thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, đen, bạc BKS:97B2-072.76 (đây là xe của chị Dương Thị Tr, sinh năm 2002 có hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã Q, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Cạn hiện thuê trọ nhà chị L) không khóa cổ, khóa càng, không có người trông giữ nên Y đã lấy một chiếc chìa khóa trong số 02 chìa do L đưa cho từ trước tra vào ổ khóa xe sau đó dùng tay vặn ổ khóa điện nhưng không mở được, Y vẫn cắm chìa khóa ở ổ khóa điện ngồi lên xe dùng chân đẩy chiếc xe ra ngoài. Thấy Y đã trộm cắp được chiếc xe, L cũng đi ra và theo sau Y (Y đi trước L một đoạn) thì rẽ phải đến khu đất trống gần đó thì Y giật mặt nạ xe ra, đấu dây điện và nổ được máy chiếc xe này. Sau đó Y điều khiển xe chở L đi ra thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh và bán cho một người phụ nữ không quen biết ở gần trường Cao đẳng Bắc Hà được số tiền là 2.500.000 đồng. Số tiền này, Y và L mua ma túy để cùng sử dụng với số tiền 1.000.000đ còn số tiền 1.500.000đ cùng nhau chi tiêu chung.

Lần thứ hai: Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 30/9/2023, L đi bộ sang phòng trọ của Y chơi, sau đó cả hai lại rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Y và L đi bộ từ phòng trọ của Y và lang thang trong thôn Đình Cả, xã Nội Duệ. Cả hai đi đến khu nhà trọ đối diện là cái hồ nước của gia đình bà Nguyễn Thị Thà, sinh năm 1963 thì L thấy cổng khu nhà trọ có 2 cánh làm bằng sắt đang đóng, quan sát bên trong có nhiều xe máy nên Y và L quay lại và đứng bên ngoài quan sát. L thấy bên phải cổng có dán chữ phòng trọ cho thuê bên dưới có số điện thoại của chủ nhà nên L đứng giả vờ gọi điện cho chủ nhà trọ và cảnh giới cho Y, còn Y quan sát xung quanh thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, bạc BKS: 22F1-X (đây là xe của anh Đặng Quang M, sinh năm 1970 có hộ khẩu thường trú ở thôn Y, xã P, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang hiện đang thuê trọ nhà bà Thà) dựng giáp cổng, L dùng tay phải mở cổng đi vào bên trong tiến lại gần chiếc xe thấy xe không khóa cổ, khóa càng nên lại lấy chìa khóa do L đưa từ trước tra vào ổ khóa điện của xe thì mở được khóa điện sau đó dắt chiếc xe trên ra bên ngoài cổng sau đó Y ngồi lên xe đẩy đi được một đoạn, L đi theo sau thấy Y đã nổ được máy chiếc xe L ngồi lên xe. Sau đó cả hai điều khiển chiếc xe mô tô trên ra khu vực bến xe thành phố Từ Sơn bán cho người phụ nữ không quen biết được 1.500.000 đồng. Số tiền trên, Y và L mua ma túy để cùng sử dụng với số tiền 1.000.000đ còn số tiền 500.000đ cùng nhau chi tiêu chung.

Lần thứ ba: Khoảng 15 giờ ngày 30/9/2023, Y và L tiếp tục rủ nhau đi trộm cắp tài. Y và L bắt xe taxi của một người không quen biết để xuống thôn Đại Trung, xã Đại Đồng mục đích trộm cắp xe mô tô tại các khu trọ. Khi đến nơi, Y và L xuống xe, đi bộ vào trong làng Đại Trung vừa đi vừa quan sát xem có tài sản sở hở thì trộm cắp. Đến khoảng hơn 16h cùng ngày, Y và L vào một ngõ nhỏ, đi sâu vào bên trong khoảng 100m thấy có khu nhà trọ cao tầng của gia đình anh Nguyễn Bá Tú, sinh năm 1989 có cửa cổng 04 cánh màu xanh đen, bên trái khu trọ là quầy thuốc cánh đang mở bên trong. Y và L phát hiện trong sân để nhiều xe mô tô, không có người trông giữ nên Y và L đã thống nhất sẽ trộm cắp 01 chiếc xe mô tô ở trong sân. Ban đầu Y và L đi qua khu nhà trọ này để quan sát đường đi, sau đó L đi lên một đoạn để cảnh giới còn Y đi vào trong sân thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đen không gắn biển kiểm soát, dựng trước cửa phòng trọ số 108, xe để ngoài cùng bên trái theo hướng đi có dựng nhiều xe. Xe dựng chân trống phụ đầu xe hướng vào trước cửa phòng trọ, đuôi xe hướng ra cổng khu trọ không khóa cổ, khóa càng (đây là xe của anh Đậu Xuân D, sinh năm 2002 có hộ khẩu thường trú ở thôn Đ, xã T, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An hiện thuê trọ nhà anh Tú). Y gạt chân trống ngồi lên xe dùng chân đẩy ra ngoài rẽ trái đến vị trí L đứng. Sau đó, L đi phía sau đẩy xe cùng với Y ra đến đầu ngõ thấy vắng người thì Y và L dừng lại cùng nhau giật chiếc mặt nạ xe ra và đấu dây điện đề nổ xe rồi cả hai điều khiển xe về phòng trọ của Y. Y dùng chiếc xe trên làm phương tiện đi lại còn L thì đi bộ về phòng trọ. Đến ngày 04/10/2023, khi Y đang điều khiển chiếc xe trên chở L đến đoạn khu đất mới bãi Ré thì bị lực lượng công an dừng xe kiểm tra và thu giữ chiếc xe trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 80 ngày 09/10/2023 của Hội đồng định gia tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận:

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen không BKS, số máy JA 39E3224318, số khung RLHJA 3925PY 747225. Tài sản đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 16.000.000đ - 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, đen,bạc BKS:97B2- 072.76, số máy JA 39E2334165, số khung RLHJA 222MY214857. Tài sản đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 14.000.000đ - 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen BKS:22F1-X, số máy 5C64196948, số khung RLCS5C6409Y186948. Tài sản đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 7.000.000đ.

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 80 ngày 09/10/2023 của Hội đồng định gia tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen BKS:97B1 -X, số máy 5C641042965, số khung RLCS5C64DY042952. Tài sản đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 8.000.000đ.

Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen không BKS, số máy JA 39E3224318, số khung RLHJA 3925PY 747225. Quá trình điều tra xác định được đây là tài sản hợp pháp của anh D nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh D là phù hợp.

- Đối với 02 chiếc chìa khóa nhãn hiệu Honda màu đen (một chiếc chìa khóa dài khoảng 07 cm, một chiếc chìa khóa dài khoảng 04cm) do L giao nộp ngày 04/10/2023. Quá trình điều tra xác định là do L nhặt được mục đích dùng để mở ổ khóa điện xe.

Về trách nhiệm dân sự:

- Anh D đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì.

- Chị D, Anh M và chị Tr yêu cầu L phải bồi thường cho anh, chị giá trị chiếc xe theo định giá tài sản. Đến nay, các bị cáo chưa bồi thường được cho anh M, chị Tr và chị D.

Tại Cơ quan điều tra Y và L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 01/CT-VKS – TD ngày 19/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để xét xử bị cáo Cà Văn Y và Đặng Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của từng bị cáo cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cà Văn Y và Đặng Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm g, h, khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Cà Văn Y từ 32 tháng tù đến 34 tháng tù. Chuyển 27 tháng tù treo của bản án số 34/2021 ngày 08/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giao, tỉnh Điện Biên sang tù có thời hạn. Buộc bị cáo Cà Văn Y phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là từ 59 tháng tù đến 61tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2023. Được trừ thời gian đã tạm giữ tạm giam của bản án số 34 ngày 08/4/2021 từ (11/12/2020 đến 08/4/2021). Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Đặng Văn L từ 32 tháng tù đến 34 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 584, 585, 586, BLDS. Buộc bị cáo Cà Văn Y phải bồi thường cho chị Diễm số tiền là 8.000.000đồng. Bị cáo Cà Văn Y và Đặng Văn L phải liên đới bồi thường cho anh M số tiền là 7.000.000đồng, chị Tr số tiền là 14.000.000đồng (cụ thể mỗi bị cáo 10.5000.000đồng).

Tịch thu tiêu hủy 02 chìa khóa do không còn giá trị sử dụng.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và các vấn đề khác mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Do các bị cáo đều là con nghiện, không có nghề nghiệp ổn định, không có tiền, nên trong các ngày 25/9/2023 đến 30/9/2023, L đã 01 lần trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Diễm và cùng với Y 03 lần lén lút trộm cắp tài sản của anh M, anh D, chị Tr với tổng giá trị tài sản bị cáo Đặng Văn L trộm cắp là 45.000.000đ; Tổng giá trị tài sản bị cáo Cà Văn Y đã trộm cắp là 37.000.000đ. Viện kiểm sát truy tố các bị cáo theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tài sản của công dân mà còn làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang nghi ngờ lẫn nhau vì vậy cần phải có mức hình phạt tương xứng với hình vi phạm tội của bị cáo.

[3] Nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS.

Các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, do vậy phải chịu tình tiết tăng nặng tại điểm g, khoản 1, Điều 52 BLHS; bị cáo Cà Văn Y Lần phạm tội này là tái phạm vì vậy phải chịu tình tiết tăng nặng tại điểm h, khoản 1, Điều 52 BLHS. Các bị cáo đã bị đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học.

[4]Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, tài sản không có gì vì vậy không cần phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng và xử lY vật chứng:

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen không BKS, số máy JA 39E3224318, số khung RLHJA 3925PY 747225. Quá trình điều tra xác định được đây là tài sản hợp pháp của anh D nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh D là phù hợp.

- Đối với 02 chiếc chìa khóa nhãn hiệu Honda màu đen (một chiếc chìa khóa dài khoảng 07 cm, một chiếc chìa khóa dài khoảng 04cm) do L giao nộp ngày 04/10/2023. Quá trình điều tra xác định là do L nhặt được mục đích dùng để mở ổ khóa điện xe cần tịch thu tiêu hủy.

- Về trách nhiệm dân sự:

- Anh D đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì lên không giải quyết ở vụ án này.

- Chị D, Anh M và chị Tr yêu cầu L phải bồi thường cho anh, chị giá trị chiếc xe theo định giá tài sản. Đến nay, các bị cáo chưa bồi thường được cho anh M, chị Tr và chị D, nên cần buộc bị cáo Cà Văn Y phải bồi thường cho chị Diễm số tiền là 8.000.000đồng; bị cáo Cà Văn Y và Đặng Văn L phải liên đới bồi thường cho anh M số tiền là 7.000.000đồng, chị Tr số tiền là 14.000.000đồng (cụ thể mỗi bị cáo 10.5000.000đồng).

Liên quan đến vụ án:

- Đối với nam thanh niên và 02 người phụ nữ đã mua 03 chiếc xe mô tô do L và Y trộm cắp, dựa vào lời khai của L và Y chưa có đủ cơ sở để điều tra làm rõ, khi nào điều tra làm rõ được sẽ xử lY sau.

- Đối với những người bán ma túy cho L và Y dựa vào lời khai của L và Y chưa có đủ cơ sở để điều tra làm rõ, khi nào điều tra làm rõ được sẽ xử lY sau.

- Tại biên bản kiểm tra ma túy Y và L dương tính với heroin. Trong quá trình điều tra Y và L khai không nhớ địa điểm sử dụng nên chưa có đủ căn cứ xử lY về hành “Sử dụng trái phép chất ma túy” đối với L và Y. Khi nào làm rõ xử lY sau.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST và DSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cà Văn Y, Đặng Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản.” Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm g, h, khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự. Điều 136; Điều 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 584, 585, 586, BLDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Cà Văn Y 33(Ba ba) tháng tù. Chuyển 27 tháng tù treo của bản án số 34/2021 ngày 08/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giao, tỉnh Điện Biên sang tù có thời hạn. Buộc bị cáo Cà Văn Y phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 60 (Sáu mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 4/10/2023. Được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam của bản án số 34 ngày 08/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giao, tỉnh Điện Biên từ (11/12/2020 đến 08/4/2021).

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 136; Điều 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Điều 584, 585, 586, BLDS; Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Đặng Văn L 33 (Ba ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 4/10/2023.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc chìa khóa nhãn hiệu Honda màu đen (một chiếc chìa khóa dài khoảng 07 cm, một chiếc chìa khóa dài khoảng 04cm) theo biên bản bàn giao giữ Công an huyện Tiên Du với Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Du ngày 9/01/2024.

Buộc bị cáo Cà Văn Y phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Diễm số tiền là 8.000.000đồng; bị cáo Cà Văn Y và Đặng Văn L phải liên đới bồi thường cho anh Đặng Quang M số tiền là 7.000.000đồng, chị Dương Thị Tr số tiền là 14.000.000đồng (cụ thể mỗi bị cáo 10.5000.000đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu mà người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Cà Văn Y phải chịu 1.025.000đồng án phí DSST, bị cáo Đặng Văn L Y phải chịu 1.425.000đồng án phí DSST.

Các bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án, hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2024/HS-ST

Số hiệu:65/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về