Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 65/2024/HS-ST NGÀY 20/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 66/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Tạ Quang T, sinh năm 1996; nơi đăng ký thường trú: Tổ X, thôn Y, thị trấn PD, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Quốc Đ và bà Trần Thị Y; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/11/2023 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Bùi Văn K, sinh năm 1974; địa chỉ: Z, khu phố BP, phường BN, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị ND, sinh năm 1975; địa chỉ: , khu phố BP, phường BN, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Thành Kh, sinh năm 1990. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 20/11/2023, Tạ Quang T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha biển kiểm soát 47U1-X từ thành phố Dĩ An đến phường Bình Nhâm, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, khi T đi ngang qua nhà số B, đường Cánh Mạng Tháng 8, khu phố BP, phường BN, thành phố Thuận An thì nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại: WAVE RSX, màu sơn: Đỏ - Đen, biển kiểm soát 61C2-X của ông Bùi Văn K đang để phía trước nhà, không có người trông coi, trên xe có cắm sẵn chìa khoá nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô trên đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Thực hiện ý định, T điều khiển xe mô tô của T để tại bãi xe của Gara sửa xe ô tô kế bên, sau đó đi bộ đến trước nhà số B dắt xe mô tô biển kiểm soát 61C2-X ra ngoài vỉa hè, T ngồi lên xe và mở khoá thì thiết bị chống trộm của xe phát âm thanh cảnh báo. Lúc này, ông K và ông Nguyễn Thành Kh đang ở trong nhà số B nghe thấy tiếng báo động chống trộm nên chạy ra khống chế T, giao cho Công an phường BN lập biên bản phạm tội quả tang và chuyển hồ sơ đến Công an thành phố Thuận An.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu: Honda, số loại: Wave RSX, màu sơn: Đỏ - Đen, số khung: RLHJA3842NY156799, số máy: JA52E0486840, biển kiểm soát 61C2-X;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu: Yamaha, số loại: Sirius, màu sơn: Cam – Đen, số khung: RLCUE1710JY240160, số máy: E3T6E-351648, biển kiểm soát 47U1-X.

Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 21/11/2023 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu: Honda, số loại: Wave RSX, màu sơn: Đỏ - Đen, số khung: RLHJA3842NY156799, số máy: JA52E0486840, biển kiểm soát 61C2-X có giá trị: 17.000.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 69/CT-VKS-TA ngày 07/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Tạ Quang T về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng, nhận định bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã thực hiện nghĩa vụ quân sự; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Quang T mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Do bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên đề nghị áp dụng Điều 65 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự để cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng. Về trách nhiệm dân sự do bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không xem xét; trả lại cho bị cáo chiếc xe mô tô của bị cáo do không liên quan đến tội phạm.

Bị cáo Tạ Quang T thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như Cáo trạng đã nêu. Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải. Tại lời nói sau cùng bị cáo hứa sẽ cải tạo tốt và xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo để tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi và hậu quả: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất thừa nhận vào khoảng 09 giờ ngày 20/11/2023 sau khi phát hiện chiếc xe mô tô biển kiểm soát 61C2-X đang dựng trước nhà số B, đường Cánh Mạng Tháng 8, khu phố Bình Phước, phường Bình Nhâm, thành phố Thuận An liền nảy sinh ý định chiếm đoạt. Thực hiện ý định, bị cáo đã để chiếc xe mô tô của mình đang điều khiển ở Gara sửa xe cạnh đó sau đó đi bộ lại, dắt chiếc xe của bị hại ra đường mở khóa điện để tẩu thoát nhưng do xe có lắp đặt thiết bị chống trộm nên đã phát ra âm thanh cảnh báo, bị hại và người làm chứng phát hiện nên đã bắt giữ bị cáo giao cho Công an phường Bình Nhâm cùng tang vật. Theo kết luận định giá tài sản, chiếc xe bị cáo chiếm đoạt có giá trị 17.000.000 đồng.

[3] Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo nhận thức được việc làm đó là vi phạm pháp luật, thấy trước hậu quả đồng thời mong muốn chiếm đoạt được tài sản của bị hại để bán lấy tiền tiêu xài, do đó lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Từ những nhận xét nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Tạ Quang T khi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô của bị hại có giá trị 17.000.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không gây oan sai cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi đó là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam, tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi ngay sau khi bị chiếm đoạt và đã giao trả cho bị hại nên thiệt hại không lớn; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và việc không buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù không làm ảnh hưởng đến khả năng tự cải tạo của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo đủ điều kiện để được áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 14 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo cũng như vẫn đảm bảo công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị căn cứ vào các điều luật nêu trên để xử phạt bị cáo là phù hợp pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Tuy nhên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại nhưng bị bắt quả tang, tài sản thu hồi ngay và không bị hư hỏng nên thiệt hại không lớn, do đó cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự so với đề nghị của Kiểm sát viên.

[7] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Tài sản bị cáo chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, màu sơn: Đỏ - Đen, số khung: RLHJA3842NY156799, số máy: JA52E0486840, biển kiểm soát 61C2- X. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe nêu trên do bà Nguyễn Thị ND đứng tên chủ sở hữu, ông Bùi Văn K là chồng bà ND sử dụng. Ngày 05/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả xe mô tô trên cho bà ND là đúng quy định; ông Ký và bà ND không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu: Yamaha, số loại: Sirius, màu sơn: Cam - Đen, số khung: RLCUE1710JY240160, số máy: E3T6E-351648, biển kiểm soát: 47U1-X. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là tài sản của Tạ Quang T, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 14 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Tạ Quang T phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Tạ Quang T 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (Hai) năm kể từ ngày tuyên án (ngày 20/3/2024).

Trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Giao bị cáo Tạ Quang T cho Ủy ban nhân dân thị trấn PD, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Trả lại cho bị cáo Tạ Quang T chiếc xe mô tô nhãn hiệu: Yamaha, số loại: Sirius, màu sơn: Cam - Đen, số khung: RLCUE1710JY240160, số máy: E3T6E-351648, biển kiểm soát: 47U1-X (Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/3/2024).

3. Về án phí: Bị cáo Tạ Quang T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2024/HS-ST

Số hiệu:65/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về