TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2023/TLST-HS, ngày 08 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2023/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1985, tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Xóm T, xã V, huyện L, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Tháo Thị H (đã chết); Bị cáo có vợ là Trần Thị T, sinh năm 1972 và 01 người con, sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản; Biện pháp ngăn chặn áp dụng: Bị bắt tạm giữ ngày 06/7/2023, sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M - Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: 1. Chị Mã Thị Q, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
2. Anh Ngô Thanh T, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn C, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn T (sinh năm 1985, trú tại Xóm T, xã V, huyện L, tỉnh Nghệ An), là đối tượng sống lang thang, không có nghề nghiệp ổn định. Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên từ ngày 29/10/2019 đến ngày 31/10/2019, Nguyễn Văn T đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện M, tỉnh Đắk Nông, cụ thể:
Vụ thứ 01: Vào khoảng 16 giờ ngày 29/10/2019, Nguyễn Văn T đi bộ qua khu vực rẫy của chị Mã Thị Q (sinh năm 1980, trú tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông) tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông thì phát hiện trên rẫy trồng nhiều cây gừng, T nảy sinh ý định nhổ trộm đem bán lấy tiền tiêu xài nên đã nhặt 01 vỏ bao xác rắn màu nâu ở ven đường rồi đi vào trong rẫy dùng tay nhổ gừng bỏ vào bao rồi đem đến bán cho chị Nguyễn Thị N (sinh năm 1980, trú tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông) cân được 25kg, được số tiền 200.000 đồng. Nguyễn Văn T đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.
Vụ thứ 02: Vào khoảng 11 giờ ngày 31/10/2019, Nguyễn Văn T gặp và rủ đối tượng tên Đ (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đi trộm cắp gừng bán lấy tiền tiêu xài thì Đ đồng ý và điều khiển xe mô tô kiểu dáng xe Wave, màu vàng (chưa xác định được biển số) chở T đến rẫy của anh Ngô Thanh T (sinh năm 1980, trú tại Thôn C, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông) tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Tại đây, Đ đứng ngoài cảnh giới, còn T nhặt 01 vỏ bao xác rắn bên đường rồi đi vào trong rẫy dùng tay nhổ gừng bỏ vào trong bao, sau đó, T và Đại bán cho một người phụ nữ đi đường (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) cân được 70kg, được số tiền 550.000 đồng. Đại đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.
Vụ thứ 03. Vào khoảng 22 giờ ngày 31/10/2019, Đại và T chuẩn bị 05 vỏ bao xác rắn (trong đó: 04 vỏ bao xác rắn màu đỏ, 01 vỏ bao xác rắn màu trắng) rồi Đại điều khiển xe mô tô chở T đến rẫy của chị Mã Thị Q (sinh năm 1980, trú tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông) tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông, Đại và T đi vào trong rẫy dùng tay nhổ gừng bỏ vào 05 vỏ bao xác rắn rồi cột chặt miệng bao. Đến khoảng 06 giờ ngày 01/11/2019, T lần lượt chở 05 bao gừng đến bán cho chị Nguyễn Thị N (sinh năm 1980, là chủ thu mua nông sản) ở Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông, cân được 160kg, được 1.600.000 đồng. Do nghi ngờ gừng do T trộm cắp nên chị N hẹn T 10 giờ cùng ngày quay lại lấy tiền đồng thời trình báo đến Cơ quan Công an. Đến 10 giờ cùng ngày, T và Đ quay lại lấy tiền thì phát hiện có nhiều người và sợ bị phát hiện nên T và Đ bỏ trốn. Đến ngày 06/7/2023, Nguyễn Văn T bị bắt theo quyết định truy nã số 07/QĐTN, ngày 23/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh Đắk Nông. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. (BL 98-115) Tại Kết luận định giá tài sản số 64/HĐĐGTS, ngày 27/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M kết luận: 25kg gừng tươi, có giá trị là 250.000 đồng; 70kg gừng tươi, có giá trị là 700.000 đồng; 160kg gừng tươi, có giá trị là 1.600.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số: 69/CT – VKS(ĐM) ngày 07 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố là đúng không oan sai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil giữ quyền công tố tại phiên Tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”:
* Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 06 đến 09 tháng tù.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã thu giữ sau đó trả lại: 160kg gừng tươi cho chị Mã Thị Q là chủ sở hữu hợp pháp.
- Tịch thu tiêu hủy: 05 vỏ bao xác rắn (trong đó: 04 vỏ bao xác rắn màu đỏ, 01 vỏ bao xác rắn màu trắng), do không còn giá trị sử dụng.
- Đối với xe mô tô mà bị cáo và đối tượng tên Đ sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã áp dụng các biện pháp truy tìm nhưng không thu giữ được nên không xem xét xử lý.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.
Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Trong khoảng thời gian từ ngày 29/10/2019 đến ngày 31/10/2019, Nguyễn Văn T đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện M, tỉnh Đắk Nông, cụ thể:
- Vụ thứ nhất: Vào khoảng 16 giờ ngày 29/10/2019, tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Văn T lén lút trộm cắp của chị Mã Thị Q 25kg gừng tươi, có giá trị là 250.000 đồng.
- Vụ thứ hai: Vào khoảng 11 giờ ngày 31/10/2019, tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Văn T lén lút trộm cắp của anh Ngô Thanh T 70kg gừng tươi, có giá trị là 700.000 đồng.
- Vụ thứ ba: Vào khoảng 22 giờ ngày 31/10/2019, tại Thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Văn T lén lút trộm cắp của chị Mã Thị Q 160kg gừng tươi, có giá trị là 1.600.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Văn T trộm cắp là 2.550.000 đồng.
Xét quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
… b) Đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 19,170, 171, 172, 174, 176 và 290 của bộ lật này mà chưa được xó án tích mà còn vi phạm”.
[4] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết được việc xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức coi thường pháp luật, lười lao động, để có tiền tiêu xài bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà mình đã gây ra.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tài sản mà bị cáo trộm cắp có giá trị thấp và bản thân bị cáo trong quá trình lao động đã xảy ra tai nạn dẫn đến bị cáo phải phẫu thuật và nẹp đinh tại đùi trái dẫn đến việc đi lại của bị cáo gặp rất nhiều khó khăn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đặt ra giải quyết.
[8] Về vật chứng của vụ án:
- Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã thu giữ sau đó trả lại: 160kg gừng tươi cho chị Mã Thị Q là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp nên cần chấp nhận.
- Cần tịch thu tiêu hủy 05 vỏ bao xác rắn (trong đó: 04 vỏ bao xác rắn màu đỏ, 01 vỏ bao xác rắn màu trắng), do không còn giá trị sử dụng.
- Đối với xe mô tô mà bị cáo và đối tượng tên Đ sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã áp dụng các biện pháp truy tìm nhưng không thu giữ được nên không xem xét xử lý.
[9] Vấn đề khác: Đối với đối tượng tên Đ (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) là đối tượng tham gia trộm cắp gừng cùng bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh Đắk Nông đang tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
Đối với chị Nguyễn Thị N, do không biết tài sản là do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 06/7/2023).
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đặt ra giải quyết.
3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự; căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã thu giữ sau đó trả lại: 160kg gừng tươi cho chị Mã Thị Q là chủ sở hữu hợp pháp.
- Tịch thu tiêu hủy: 05 vỏ bao xác rắn (trong đó: 04 vỏ bao xác rắn màu đỏ, 01 vỏ bao xác rắn màu trắng), do không còn giá trị sử dụng.
- Đối với xe mô tô mà bị cáo và đối tượng tên Đ sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã áp dụng các biện pháp truy tìm nhưng không thu giữ được nên không xem xét xử lý.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Điều 12, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí HSST.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày bản án được tống đath hợp lệ.
“Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 65/2023/HS-ST
Số hiệu: | 65/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về