Bản án về tội trộm cắp tài sản số 647/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 647/2022/HS-PT NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 433/2022/TLPT-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H bị xét xử sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản” do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Văn Th, sinh năm 1981; Tên gọi khác: Không; HKTT, chỗ ở: huyện CG, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố: Phạm Văn L, sinh năm 1960; Mẹ: Trần Thị V, sinh năm 1962; Vợ: Trần Thị T, sinh năm 1979; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2012; Đều trú tại: T3 Trường, CG, Hải Dương. Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con lớn; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 12/12/2013, bị Công an huyện Bình Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về chứa bạc và đánh bạc trái phép áp dụng hình phạt tiền, ngày 17/12/2013, Th đã thi hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 22/9/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam thuộc Công an tỉnh Hải Dương, (có mặt);

2. Nguyễn Đình H, sinh năm 1970; Tên gọi khác: Không; HKTT, chỗ ở: huyện CG, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố: Nguyễn Đình Ch (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị V (đã chết); Vợ: Phạm Thị M, sinh năm 1978 (đã ly hôn); Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 1999; Đều trú tại: CG, Hải Dương. Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm ngày 22/9/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam thuộc Công an tỉnh Hải Dương, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn Th: Luật sư Phạm Khắc D – Văn phòng luật sư Á Đông thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương, (có mặt);

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đình H: Luật sư Phạm Thị T, luật sư Nguyễn Đình Q – Công ty Luật TNHH L thuộc Đoàn luật sư T5 phố Hà Nội, (có mặt Luật sư Quyết);

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đình H do Tòa án chỉ định là Luật sư Trần Trung K-Văn phòng luật sư A thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH C Việt Nam, địa chỉ tại Km 38, Quốc lộ 5, xã Cẩm Phúc, huyện CG, tỉnh Hải Dương (sau đây gọi tắt là công ty C) chuyên lắp ráp, sản xuất xe nâng, nhãn hiệu C, hoạt động từ tháng 2/2019. Ngày 28/9/2019, Công ty C ký hợp đồng bảo vệ với Công ty dịch vụ bảo vệ B (sau đây gọi tắt là Công ty B), địa chỉ số 22/207, phố Điện Biên Phủ, T5 phổ Hải Dương. Theo Hợp đồng, Công ty B có nhiệm vụ và quyền hạn giữ gìn bảo vệ an toàn tài sản và an ninh trật tự, không để những người, pH tiện không có nhiệm vụ vào trong công ty C; chịu trách nhiệm bồi thường 100% về mất mát tài sản của Công ty C theo biên bản bàn giao giữa hai bên.

Công ty B phân công nhiệm vụ cho 05 nhân viên bảo vệ do Nguyễn Đình L làm tổ trưởng, trong đó: L cùng 02 người khác làm bảo vệ theo giờ hành chính từ 7 giờ đến 17 giờ hàng ngày; Vũ Thị L1 và Phạm Văn T làm bảo vệ ca đêm từ 18 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.

Quá trình làm việc tại Công ty C, L, T và L1 thấy việc quản lý linh kiện sản xuất xe nâng của Công ty C sơ hở: các linh kiện không được để trong kho có khóa mà để ở sân xung quanh nhà xưởng, buổi tối nhân viên của Công ty về hết, chỉ còn lại nhân viên bảo vệ, nên đã bàn bạc về việc lấy linh kiện xe nâng gồm: đối trọng, càng nâng, bánh xe mang đi bán lấy tiền chia nhau.

Từ khoảng cuối tháng 02/2021, L và L1 gặp Phạm Văn Th làm nghề thu mua sắt vụn, nói với Th về việc L và L1 đang làm bảo vệ tại Công ty C, trong công ty có nhiều cục đối trọng xe nâng để ngoài sân, buổi tối chỉ có bảo vệ ở công ty, Th muốn mua thì L bán cho với giá sắt vụn. Th chỉ cần thuê xe tải đến công ty thì L và L1 sẽ mở cổng để xe vào lấy. Th đồng ý và cho L số điện thoại để liên lạc. Sau đó, Th thuê Nguyễn Đình H là người có xe tải BKS 34C-100.65, khi L hoặc L1 thông báo lấy được tài sản của Công ty C thì Th báo cho H biết để H điều khiển xe ô tô vào công ty chở tài sản mang đi.

Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2021 đến 13/5/2021, Th, L1, L, T, H nhiều lần lấy cục đối trọng, càng nâng và bánh xe nâng của công ty C mang đi bán. Trước khi lấy tài sản, L1 hoặc L gọi điện thoại cho Th hẹn thời gian đến lấy, sau đó Th gọi điện cho H đến công ty để chở hàng. Khi H điều khiển ô tô đến công ty C, L1 mở cổng để xe ô tô tải BKS 34C-100.65 của H vào, sau đó ngồi ở cổng canh gác để L, T, Th và H lấy hàng đưa lên ô tô. Để tránh sự phát hiện của công ty, L1, T ngắt điện để hệ thống Camera giám sát trong công ty không hoạt động được. Việc đỗ xe ở vị trí nào, lấy tài sản gì là do L và T chỉ cho Th. Do H biết lái xe nâng nên Th nhờ H điều khiển xe nâng có sẵn ở công ty để nâng, chuyển các linh kiện trộm cắp lên thùng xe tải. Những lần có L tham gia trộm cắp thì L, L1, T và Th chỉ trộm cắp đối trọng và bánh xe nâng với thỏa thuận sẽ cân trọng lượng của đối trọng và bán với giá 6.000 đồng/1kg, còn bánh xe tính theo đôi với giá dao động từ 1-2 triệu đồng/đôi.

Ngoài ra, có khoảng 7 lần chỉ có T và L1 cùng với Th, H trộm cắp càng nâng của xe nâng (những lần này thì T và L1 không cho L biết và không chia tiền trộm cắp được cho L) với thỏa thuận sẽ cân khối lượng càng nâng và bán với giá 6.000 đồng/kg.

Sau khi lấy được cục đối trọng, càng nâng và bánh xe nâng, H điều khiển ô tô cùng Th, L, T ra khu vực cân điện tử của Công ty C cân trọng lượng để làm căn cứ thanh toán sau này. Sau đó H cùng Th mang bán cho nhiều người, khi giao dịch, Th nói là tài sản do Công ty nơi Th làm việc thanh lý, gồm:

- Bán cho anh Ngô Huy H1, sinh năm 1975, trú tại thôn TM, xã CK, huyện Mỹ Hào, tỉnh H Yên 05 lần, tổng số 184 chiếc càng nâng và 20 bánh xe nâng với mức giá từ 2 triệu đến 3 triệu đồng/đôi càng nâng hoặc đôi bánh xe nâng tùy kích thước từ bé đến lớn. Anh H1 đã bán số bánh xe nâng trên cho anh Mai T5 T3, ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình điều tra vụ án, anh T3 đã tự nguyện giao nộp 08 bánh xe nâng, số còn lại anh T3 đã bán cho người khác. Đối với càng nâng, H1 đã bán cho nhiều người khác nhau (chưa xác định được), hiện anh H1 còn giữ 22 chiếc càng nâng và đã tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra;

- Bán cho anh Vũ Văn T4, sinh năm 1975, trú tại thôn MT, xã T3 Trường, huyện CG, tỉnh Hải Dương 04 lần, tổng số 13 cục đối trọng với giá 7.000 đồng/kg;

- Bán cho chị Đỗ Thị H, sinh năm 1979, trú tại thôn DH, xã MĐ, huyện Mỹ Hào, tỉnh H Yên 03 lần, tổng số 10 cục đối trọng với giá 7.800 đồng/kg;

- Bán cho anh Hoàng Tiến T5, sinh năm 1984, trú tại thôn T3 Ẳp 1, xã PT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên 03 lần, tổng số 10 cục đối trọng với giá 8.200 đồng/kg. Sau khi mua của H, Th, anh T4, anh T5 và chị H đã bán lại cho người khác hết (không xác định được bán cho ai).

Khi bán, bánh xe nâng thì tính theo đôi, đối trọng và càng nâng Th báo những người mua theo khối lượng đã cân tại Công ty C với giá thỏa thuận như trên. Do các bên không nhớ chính xác số lượng, chủng loại nên không xác định được số tiền Th đã bán được bao nhiêu. Sau khi Th bán lấy tiền thanh toán cho L, L1, T với giá đã thỏa thuận theo trọng lượng đã cân trước đó, Th trả tiền thuê xe của Nguyễn Đình H từ 600.000 đồng đến 1.200.000 đồng/chuyến tùy xa hay gần, còn bao nhiêu Th hưởng, số tiền sau khi nhận của Th thì L, L1, T chia đều cho nhau, nếu còn lẻ thì L là người cầm. Tất cả số tiền được hưởng từ việc chiếm đoạt tài sản của Công ty C đến nay các bị cáo đều đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 27/4/2021, 12/5/2021 và 13/5/2021, công ty C tiến hành kiểm kê càng nâng, đối trọng và bánh xe nâng, đối chiếu với PH1 kiểm kê tổng kho ngày 31/12/2020 phát hiện bị mất 790 càng nâng, 102 cục đổi trọng và 121 chiếc bánh xe nâng, tiến hành kiểm tra hệ thống camera an ninh, phát hiện các ca trực của T, L1 bị mất điện bất thường (không có thông báo cắt điện của ngành điện) nên ngày 08/5/2021 và ngày 17/5/2021, công ty C có đơn trình báo đề nghị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hải Dương điều tra làm rõ.

Công ty C cung cấp cho Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hải Dương kết quả rà soát về những ngày hệ thống camera an ninh của công ty bị ngắt điện không hoạt động, đối chiếu với lịch cắt điện theo thông báo của điện lực Hải Dương xác định: Từ ngày 01/3/2021 đến ngày 13/5/2021, có 32 ngày hệ thống camera an ninh của công ty không hoạt động do các bị cáo ngắt điện để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (không phải do điện lực Hải Dương cắt điện luân phiên hoặc bị sự cố nên bị mất điện). Trong thời điểm này, các bị cáo đã chiếm đoạt của Công ty C 184 chiếc càng nâng, 20 chiếc bánh xe nâng và 33 cục đối trọng. Trên cơ sở thông tin về tài sản bị chiếm đoạt do công ty C cung cấp, lời khai của các bị cáo xác định về số lượng, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt, đã có căn cứ xác định:

- Trong số 184 càng nâng có 52 chiếc xác định được mã tài sản gồm: 30 chiếc mã 23936X; 02 chiếc mã 23875X; 06 chiếc mã 23875X; 02 chiếc mã 23916X; 10 chiếc mã 23875X; 02 chiếc mã 23875X. Còn lại 132 chiếc càng nâng, công ty C không cung cấp được thông tin về mã tài sản bị chiếm đoạt.

- Đối với 20 bánh xe nâng đều xác định được mã tài sản, trong đó có 02 bánh xe nâng mã 81536X; 10 bánh xe mã 81535X; 04 bánh xe mã 81534X; 04 bánh xe mã 81531X.

- Đối với 33 cục đối trọng xe nâng, Công ty C không cung cấp được thông tin về mã tài sản cụ thể bị các bị cáo chiếm đoạt từng ngày.

Tại Kết luận định giá tài sản số 2766 ngày 10/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Hải Dương kết luận: 52 càng nâng đã xác định được mã tài sản, trị giá 106.424.970 đồng; 20 bánh xe nâng trị giá 110.345.176 đồng. Đối với 132 càng nâng và 33 cục đối trọng do không xác định được mã tài sản, cũng không xác định được mỗi ngày các bị cáo chiếm đoạt bao nhiêu linh kiện, nên Hội đồng định giá đã định giá đối với từng mã càng nâng và từng mã đối trọng mà Công ty C nhập khẩu về để sản xuất xe nâng, trong đó: 132 càng nâng gồm 24 loại mã, mã có trị giá thấp nhất là 1.205.213 đồng/chiếc, cao nhất là 4.767.510 đồng/chiếc; 33 cục đối trọng gồm 17 loại mã, trong đó mã có giá trị thấp nhất là 18.150.025 đồng/cục, cao nhất là 44.394.757 đồng/cục.

Đối chiếu với kết quả kiểm kê tài sản bị chiếm đoạt của công ty C, đối với 132 chiếc càng nâng bị chiếm đoạt không xác định được mã cụ thể được tính áp mã theo giá trị đã được định giá từ loại mã càng nâng có giá trị thấp nhất trở lên gồm: 08 càng nâng mã 23875X, trị giá 1.205.213 đồng/chiếc; 52 càng nâng mã 23875X, trị giá 1.367.182 đồng/chiếc; 84 càng nâng mã 23875X, trị giá 1.427.929 đồng/chiếc. Tổng giá trị 132 chiếc càng nâng này là 183.546.056 đồng. Đối với 33 cục đối trọng, với pH pháp áp mã tương tự để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, xác định: 02 đối trọng mã 80140X trị giá 18.150.025 đồng/cục; 01 đối trọng mã 80140X trị giá 19.513.473 đồng/cục; 02 đối trọng mã 815076, trị giá 19.672.527 đồng/cục; 03 đối trọng mã 80140X, trị giá 21.848.388 đồng/cục; 08 đối trọng mã 81410X trị giá 24.036.392 đồng/cục; 17 đối trọng mã 81410X, trị giá 25.446.718 đồng/cục. Tổng giá trị của 33 cục đối trọng là 785.589.083 đồng.

Tổng giá trị tài sản của công ty C bị các bị cáo chiếm đoạt là 1.185.905.285 đồng, trong đó: 184 càng nâng trị giá 289.971.026 đồng, 33 cục đối trọng trị giá 785.589.083 đồng; 20 bánh xe nâng trị giá 110.345.176 đồng.

Như vậy Phạm Văn Th, Phạm Văn T, Vũ Thị L1, Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H đã chiếm đoạt 33 cục đối trọng, 20 bánh xe nâng, 184 càng nâng của Công ty C với tổng trị giá 1.185.905.285 đồng. Trong đó: Th, T, L1 chiếm đoạt tài sản trị giá 1.185.905.285 đồng; L cùng Th, T, L1 chiếm đoạt tài sản trị giá 895.934.259 đồng. Đối với Nguyễn Đình H trực tiếp lái xe nâng giúp cho Th, L, L1, T đưa càng nâng, đối trọng từ sân công ty lên thùng xe tải và điều khiển xe ô tô chở Th cùng tài sản trộm cắp được từ Công ty C mang về nhà H cất giấu và mang đi bán, tài sản H cùng các bị cáo chiếm đoạt gồm: 184 càng nâng, 33 cục đối trọng và 12 bánh xe nâng, tổng trị giá 1.137.198.949 đồng (do lần cuối cùng Th không thuê H mà Th cùng L, T, L1 trộm cắp tài sản và dùng xe mô tô kéo xe cải tiến chở 08 cái bánh xe nâng và một mình Th mang đi bán).

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 02 càng nâng mã 23875X; 06 càng nâng mã 23875X; 02 càng nâng mã 23916X; 10 càng nâng xe nâng mã 23875X; 02 càng nâng mã 23875X do anh Ngô Huy H1 giao nộp ngày 25/6/2021; 04 bánh xe nâng, loại SOLIDEAL 7.00-12; 04 bánh xe nâng, loại SOLIPRO 700(6.50-10 5.00F.), 04 ảnh kích thước 9x12, trong đó: 01 ảnh chụp có hình ảnh 01 kiện gồm 30 chiếc càng nâng được buộc dây nguyên kiện, có kẹp phiếu đề tên Clark Material Handling Việt Nam, mã 23936X, 01 ảnh chụp hóa đơn mua bán ghi “28x9-15 số lượng 01 đôi”, “650-10 số lượng 03 đôi”, “700-12 số lượng 02 đôi”, 01 ảnh chụp phiếu kẹp kèm kiện càng nâng đề tên Clark Material Handling Viet Nam Co, Ltd, Case No: 4-7 23936X, 01 ảnh chụp lốp loại SOLIDPRO 700 6.50-10 5.00F do anh Mai T5 T3 giao nộp ngày 11/7/2021. Ngày 28/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương đã trả lại 22 chiếc càng nâng, 08 cái bánh xe nâng trên cho đại diện theo pháp luật của Công ty là ông Đinh Cảnh Dinh, sinh năm 1983, HKTT tại 3/79 Thống Nhất, phường Lê Thanh N, T5 phố Hải Dương là đúng quy định của pháp luật, còn 04 ảnh kích thước 9x12 do anh T3 giao nộp cần được lưu trong hồ sơ vụ án.

Ngày 24/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra thông báo truy tìm vật chứng và tiến hành truy tìm tang vật còn lại của vụ án nH đến nay chưa có kết quả. Chiếc đèn pin và điện thoại của Phạm Văn Th, Nguyễn Đình H, Nguyễn Đình L và Vũ Thị L1 dùng để liên lạc với nhau khi thực hiện hành vi phạm tội, hiện đều đã bị mất, chiếc xe cải tiến kéo bằng xe máy không có Biển kiểm soát của Th dùng để chở tài sản chiếm đoạt của Công ty C hiện Th đã bán cho người không rõ tên, tuổi, địa chỉ được 2.000.000 đồng nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hải Dương không quản lý được.

Đối với hình ảnh dữ liệu điện tử tại 02 USB chứa dữ liệu video do Công ty C giao nộp ngày 15/6/2021 có hình ảnh liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo tại công ty C đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập, đã trưng cầu giám định, cần được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Trước khi mở phiên tòa, Công ty C yêu cầu Công ty dịch vụ Bảo vệ B và các bị cáo bồi thường thiệt hại tổng số tài sản Công ty bị mất là 5.855.124.000 đồng (Giá trị tại thời điểm ngày 07/01/2021 là 5.300.316.000 đồng + thuế VAT 10% = 530.031.600 đồng).

Quá trình điều tra, các bị cáo L, L1, T, Th và H đều khai nhận hành vi như nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 06/4/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với cả 5 bị cáo;

điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với H, L1, T, Th. Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với L1, T và H.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 288, 357, 584, 587 và 589 của Bộ luật Dân sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đình L, Vũ Thị L1, Phạm Văn T, Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình L 14 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

- Xử phạt Vũ Thị L1 14 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

- Xử phạt Phạm Văn T 13 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/4/2022, các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Văn Th, Nguyễn Đình H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau đó bị cáo Phạm Văn T đã có văn bản rút kháng cáo, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 58/2022/HSPT-QĐ ngày 25/8/2022 đối với kháng cáo của bị cáo T.

Tại phiên tòa phúc thẩm

- Bị cáo Phạm Văn Th trình bày thống nhất với nội dung của bản án sơ thẩm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, với lý do: Bị cáo chỉ là người mua bán sắt vụn và là người giúp sức (đồng phạm), nên mức hình phạt của bị cáo phải nhẹ hơn các bị cáo có vai trò đầu vụ. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp số tiền truy thu 2.000.000 đồng; nộp khắc phục hậu quả 260.162.030 đồng, nộp án phí dân sự 13.008.101 đồng, nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Tổng cộng là 275.370.131 đồng.

- Bị cáo Nguyễn Đình H kháng cáo kêu oan sau đó thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung của bản án sơ thẩm và thay đổi kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, với lý do: Mức án như quyết định của bản án sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là quá nặng, bị cáo chỉ là người chở thuê (một số chuyến chở ban đầu bị cáo không biết là tài sản trộm cắp) và bị cáo chỉ là người chở thuê để lấy tiền công, tiền xăng xe.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết.

Về nội dung:

Đối với kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Th: Bị cáo T5 khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình, chỉ đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Sau khi xét xử phúc thẩm bị cáo đã khắc phục được số tiền bồi thường dân sự, án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự cùng số tiền truy thu sung quỹ Nhà nước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới được xem xét áp dụng điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo từ 06 tháng đến 01 năm tù.

Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình H: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo kháng cáo kêu oan, quanh co không nhận tội. Tuy nhiên, sau đó bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trong vụ án này bị cáo H là người lái xe chở tài sản trộm cắp có vai trò thấp nhất trong vụ án. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm nhẹ cho bị cáo từ 06 tháng đến 01 năm tù.

- Người bào chữa cho bị cáo Th trình bày luận cứ: Bị cáo Th đã khắc phục toàn bộ hậu quả đối với phần của bị cáo cũng như bị cáo có ý thức nộp tiền án phí, tiền truy thu. Bị cáo Th không phải là người của Công ty (bị trộm cắp tài sản) mà là người mua bán sắt vụn do ham lợi nên có hành vi phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự giảm hình phạt cho bị cáo nhiều hơn mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

- Người bào chữa cho bị cáo H trình bày luận cứ: Bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại tòa phúc thẩm bị cáo kêu oan (không biết mình có tội hay không có tội), nH sau đó bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và Viện kiểm sát đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm không xác định được thời điểm (chuyến thứ bao nhiêu thì bị cáo mới biết mình chở hàng do trộm cắp mà có), đến nay thì xác định 10 chuyến đầu bị cáo không biết là do trộm cắp mà có để quyết định hình phạt cũng như bị cáo Th thuê bị cáo H chở hàng thì giữa hai bị cáo không biết nhau. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vai trò của bị cáo (là người chở hàng) để áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt, nếu có căn cứ thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

- Bị cáo Th nhất trí luận cứ của người bào chữa.

- Bị cáo H nhất trí luận cứ của người bào chữa và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo đã khai báo, người bào chữa không có kH1 nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Lời khai nhận tội của các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H phù hợp với lời khai của các bị cáo có kháng cáo và các bị cáo không có kháng cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với nhau, phù hợp với hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Từ khoảng tháng 3/2021 đến 13/5/2021, Nguyễn Đình L, Vũ Thị L1, Phạm Văn T là bảo vệ của Công ty dịch vụ bảo vệ B được phân công nhiệm vụ bảo vệ tại Công ty C; Vũ Thị L1 đã ngắt điện hệ thống Camera an ninh của Công ty C, ngồi cổng cảnh giới để L, T cùng với Phạm Văn Th là người thu mua sắt vụn và thuê Nguyễn Đình H dùng xe ô tô tải BKS 34C-100.X đến chiếm đoạt các thiết bị sản xuất xe nâng của Công ty C gồm: 33 cục đối trọng, 20 bánh xe nâng, 184 chiếc càng nâng đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài cá nhân.

Tổng giá trị tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt của Công ty C có giá trị 1.185.905.285 đồng. Trong vụ án này, các bị cáo lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý hàng hóa của công ty, khi hết giờ hành chính Công ty không còn ai chỉ còn các bị cáo là bảo vệ ca trực nên đã vào sân của Công ty C lấy các linh kiện sản xuất xe nâng mang bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Hành vi của các bị cáo đã gây thiệt hại đến quyền sở hữu về tài sản của Công ty C, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa pH.

Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhiều do vụ lợi, nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Với hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Đình L, Vũ Thị L1, Phạm Văn T, Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như xác định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ.

[3] Về vai trò của các bị cáo: Bị cáo L là người khởi xướng, đề xuất và trực tiếp chỉ đạo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; L và L1 trực tiếp đi tìm Th mua hàng, Th là người thực hành tích cực, thuê xe ô tô, trực tiếp vào cùng bị cáo T và L lấy tài sản, trực tiếp mua bán tài sản trộm cắp, được hưởng lợi số tiền nhiều nhất; còn L1 làm nhiệm vụ cảnh giới, tắt điện và mở cổng; T là người thực hành tích cực, trực tiếp chỉ chỗ cho Th, H lấy tài sản đưa lên xe tải; L1, T còn cùng Th, H lấy trộm toàn bộ số càng nâng (L không tham gia); H là người lái xe tải được Th thuê đến chở các tài sản trộm cắp, biết đó là tài sản trộm cắp, trực tiếp lái xe nâng đưa các tài sản và cùng Th mang tài sản trộm cắp được đem đi bán. H không tham gia lần lấy trộm 08 cái bánh xe nâng xe giữ vai trò đồng phạm sau cùng.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty C 15 lần, từng lần chiếm đoạt đều cấu T5 tội phạm “Trộm cắp tài sản”, do vậy các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa cả 5 bị cáo T5 khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội T5 khẩn khai bảo, ăn năn hối cải”. Sau khi phạm tội các bị cáo Nguyễn Đình H, Phạm Văn T, Vũ Thị L1 và Phạm Văn Th đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại cho công ty C số tiền 50.000.000 đồng/01 bị cáo nên các bị cáo H, T, Th và L1 được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Tự nguyện bồi thường thiệt hại”. Bị cáo Vũ Thị L1 có bố đẻ là ông Vũ Xuân Tuy được Nhà nước tặng Huân cH kháng chiến hạng Ba; bị cáo Phạm Văn T có bố đẻ là ông Phạm Văn D được Nhà nước tặng Huy cH kháng chiến hạng Nhất; bị cáo Nguyễn Đình H có bố đẻ là ông Nguyễn Đình Chung được nhà nước tặng thưởng Huân cH chiến sỹ vẻ vang hạng Ba, Kỷ niệm kháng chiến, Huy hiệu chiến sỹ Điện Biên Phủ nên bị can L1, T và H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

Bị cáo Th không xác định được người mua ở Gia Lâm dẫn đến Cơ quan điều tra phải tách 3 hành vi trộm cắp ra xử lý sau nên không có căn cứ chấp nhận tình tiết điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS (tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết vụ án).

[6] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, còn gây mất trật tự trị an tại địa pH. Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tăng nặng của các bị cáo; cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở T5 người lương thiện, có ích cho xã hội.

[7] Với nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo như quyết định của bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Phạm Văn T, Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, bị cáo Phạm Văn T đã rút kháng cáo trước khi Tòa án cấp phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử, do đó Tòa án cấp phúc thẩm đã đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo T theo đúng quy định của pháp luật.

[8] Xét kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H:

[8.1] Đối với bị cáo Phạm Văn Th: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng như người bào chữa cho bị cáo trình bày, bị cáo là người mua bán sắt vụn và chỉ là người giúp sức (đồng phạm), nên mức hình phạt của bị cáo phải nhẹ hơn các bị cáo có vai trò đầu vụ. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp số tiền truy thu 2.000.000 đồng; nộp khắc phục hậu quả 260.162.030 đồng, nộp án phí dân sự 13.008.101 đồng, nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Tổng cộng là 275.370.131 đồng. Hội đồng xét xử thấy, bị cáo Th là người mua bán sắt vụn nH bị cáo trực tiếp cùng các bị cáo lén lút lấy tài sản của Công ty C và mang đi tiêu thụ, nên hành vi của bị cáo là thực hiện tích cực. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã khắc phục được toàn bộ tài sản (theo phần) cũng như nộp tiền truy thu và án phí là thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục áp dụng Điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo và chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nH có mức độ và phù hợp với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

[8.2] Bị cáo Nguyễn Đình H kháng cáo kêu oan sau đó thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung của bản án sơ thẩm và thay đổi kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, với lý do: Mức án như quyết định của bản án sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là quá nặng, bị cáo chỉ là người chở thuê (một số chuyến chở ban đầu bị cáo không biết là hàng trộm cắp) và bị cáo chỉ là người chở thuê để lấy tiền công, tiền xăng xe. Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo thời điểm nào (lần vận chuyển hàng lần thứ mấy và cụ thể là lần thứ 10) thì mới biết là tài sản vận chuyển là trộm cắp để xem xét theo đúng qui định của pháp luật. Hội đồng xét xử thấy, đến thời điểm bị cáo H phát hiện việc vận chuyển hàng hóa là trộm cắp, nH bị cáo sau đó tiếp tục thực hiện hành vi chở hàng trộm cắp và tham gia bốc dỡ hàng trộm cắp và chở đi cùng bị cáo Th để tiêu thụ. Do đó, bị cáo bị kết tội “Trộm cắp tài sản” với vai trò đồng phạm và Tòa án cấp sơ thẩm xếp vai trò cho bị cáo là thấp nhất là có căn cứ. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo không được hưởng lợi tài sản trộm cắp mà chỉ được trả công chở hàng trộm cắp, nên Hội đồng xét xử xem xét với vai trò của bị cáo và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xử phạt dưới khung hình phạt cũng đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung và phù hợp với một phần theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

[8.3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H được chấp nhận kháng cáo, nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Th và kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình H; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 06/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 13 (mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 54; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 22/9/2021.

2. Xác nhận bị cáo Phạm Văn Th đã nộp 260.162.030 đồng tiền bồi thường, 13.008.101 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai thu tiền số 0000794 ngày 08/9/2022 và 2.000.000 đồng tiền truy thu sung quỹ Nhà nước tại Biên lai thu tiền số 0000795 ngày 08/9/2022 đều của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

3. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Văn Th và Nguyễn Đình H không phải nộp.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 647/2022/HS-PT

Số hiệu:647/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về