TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 64/2023/HS-PT NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 68/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Đỗ Thị L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2023/HS-ST ngày 11 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Đỗ Thị L, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1980 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn MLA, xã BM, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Nông; Trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Kh (chết) và bà Lê Thị T; Chồng: Phạm L; Con: có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đỗ Thị L có quan hệ tình cảm yêu đương với anh Nguyễn Tấn Đ nên thường đến nhà anh Nguyễn Tấn Đ ở thôn NB1, xã BN, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi chơi.
Chiều ngày 12/7/2022, Đỗ Thị L đến nhà anh Nguyễn Tấn Đ chơi thì biết anh Đ mới được trả nợ, để tiền trong cốp xe mô tô 76C1-511.xx của anh Đ. Khoảng 19 giờ cùng ngày, anh Đ sang hàng xóm chơi nên Đỗ Thị L nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên. Đỗ Thị L dùng chìa khóa mở cốp xe mô tô 76C1-511.xx, thấy tiền được buộc thành 01 cục nên L cho vào túi áo khoác của mình, đồng thời lấy chìa khóa xe của anh Đ bỏ vào cốp xe của L rồi đi về xã BM, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Khi về đến nhà, Đỗ Thị L không kiểm tra số tiền trộm được mà đem bỏ vào mũ len của mình và giấu tại nhà mẹ đẻ là bà Lê Thị T ở gần đó.
Anh Nguyễn Tấn Đ phát hiện số tiền bị mất nên sáng ngày 13/7/2022 đến Công an xã BN trình báo sự việc. Qua làm việc, Đỗ Thị L khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Công an xã BN đã thu giữ số tiền 48.000.000 đồng Đỗ Thị L trộm cắp của anh Nguyễn Tấn Đ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2023/HS-ST ngày 11/01/2023, Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Thị L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 18/01/2023, bị cáo Đỗ Thị L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đỗ Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, nhưng không có tình tiết nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét hành vi của bị cáo Đỗ Thị L thấy rằng: Khoảng 19 giờ ngày 12/7/2022, tại nhà anh Nguyễn Tấn Đ ở thôn NB1, xã BN, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Biết anh Nguyễn Tấn Đ có một khoản tiền trong cốp xe mô tô 76C1-511.xx , lợi dụng lúc anh Nguyễn Tấn Đ sang nhà hàng xóm chơi, bị cáo Đỗ Thị L đã lén dùng chìa khóa có sẵn trên xe mô tô để mở cốp xe lấy trộm số tiền 48.000.000 đồng của anh Nguyễn Tấn Đ đem về nhà cất giấu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đỗ Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng cho bị cáo. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là không nặng. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tình tiết nào mới để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Bị cáo Đỗ Thị L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị L. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 11/01/2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thị L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Đỗ Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2023/HS-PT
Số hiệu: | 64/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về