Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Minh Th, sinh năm 1988, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: tổ 3, khu 9, thị trấn T, huyện P, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp:

Làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê T - sinh năm 1957 và bà Châu Thị Ngọc L - sinh năm 1963; vợ, con: chưa có; tiền án: có 01, tại bản án số 63/2020/HS-ST ngày 21/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 10/5/2021; nhân thân: ngày 21/6/2012, bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 1178/QĐ ngày 19/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện P và tại bản án số 90/2015/HS-ST ngày 09/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong ngày 07/8/2016; bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 21/3/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phú cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1988; nơi cú trú: ấp L, xã N, huyện P, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990; nơi cư trú: khu 9, thị trấn T, huyện P, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

- Người làm chứng: Bà Mai Thị Ánh H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Minh Th là người nghiện ma túy và có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản và có nhân thân xấu. Vào khoảng 12 giờ ngày 27/01/2022, Th gặp bạn là Nguyễn Văn H thì được H rủ đi trộm cắp tài sản thì Th đồng ý. H sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh mượn của bạn H tên Vũ (không rõ nhân thân) chở Lê Minh Th lên xã Phú Lâm, huyện Tân Phú để tìm tài sản trộm cắp. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày thì H chở Th đi ngang qua nhà anh Phạm Ngọc T, ngụ tại ấp Phương Lâm, xã Phú Lâm, huyện Tân Phú thì thấy trong sân nhà anh T có dụng cụ, vật liệu xây dựng không có người trông coi, nên Hơn dùng xe lại và nói Th đứng ngoài trông coi còn H vào lấy trộm được 49 đoạn sắt xây dựng (loại phi 6) dài 70cm đã được uốn thành hình chữ nhật, có kích thước 13cm x 17cm và 01 kìm cộng lực bằng sắt, dài 1m. Sau đó H đưa tài sản trộm được cho Th ôm ngồi phía sau xe, còn H điều khiển xe chạy về hướng thị trấn Tân Phú. Khi xe chạy được khoảng 70m thì bị người dân phát hiện và tri hô “trộm” nên Th đã ném bỏ số sắt vừa trộm được xuống đường còn H tiếp tục điều khiển xe chở Th đi đến tiệm mua phế liệu của bà Mai Thị Ánh H địa chỉ: ấp Ngọc Lâm 1, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú để bán chiếc kìm cộng lực được số tiền 50.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài hết.

Đến 17 giờ cùng ngày H và Th tiếp tục quay lại nhà của anh Phạm Ngọc T để tìm tài sản trộm cắp thì bị người dân phát hiện và bắt giữ được Th, còn Hơn thì chạy thoát.

Tại Cơ quan công an huyện Tân Phú Lê Minh Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 07/4/2022, Nguyễn Văn H đã đến Cơ quan công an huyện Tân Phú trình diện và khai báo hành vi vi phạm của mình.

Tài sản thiệt hại: Theo kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐGTS ngày 21/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phú, xác định: 49 đoạn sắt, loại phi 6 có trọng lượng 08 (tám) kg, có chiều dài 70cm được uốn thành hình chữ nhật có kích thước 13cm x 17cm, trị giá 168.000đồng;

01 cộng kìm cộng lực bằng sắt dài 1m, trị giá 280.000đồng. Tổng trị giá tài sản thiệt hại là 448.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 73/CT-VKSTP ngày 17 tháng 5 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Lê Minh Th về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú tham gia phiên tòa trình bày luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo, cụ thể như sau:

Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Lê Minh Th từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo Th nhất về tội danh, các tình tiết tăng năng giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị áp dụng đối với bị cáo, Th nhất về xử lý vật chứng và không có ý kiến hay tranh luận gì khác.

Về vật chứng vụ án: Toàn bộ vật chứng đã được trao trả cho chủ sở hữu nên không xem xét.

Đối với Nguyễn Văn H, do hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Công an huyện Tân Phú xử phạt hành chính số tiền 2.500.000đồng về hành vi “trộm cắp tài sản” là đúng quy định pháp luật.

Đối với bà Mai Thị Ánh H là người mua 01 cái kìm cộng lực bắng sắt của Hơn và Th nhưng bà H không biết tài sản do trộm cắp mà có nên không xử lý là có cơ sở.

Đối với xe mô tô mà Hơn sử dụng để chở Th đi trộm cắp tài sản, xe này Hơn đã trả cho chủ sở hữu nhưng không rõ nhân thân lai lịch. Cần tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào làm rõ được thì xử lý sau.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét thấy lời khai nhận tội tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với vật chứng của vụ án, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Trong vụ án này trị giá tài sản trộm cắp là 448.000 đồng dưới 2.000.000 đồng, tuy nhiên do bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản nên đây là yếu tố định tội đối với bị cáo theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng số 73/CT-VKSTP ngày 17 tháng 5 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Lê Minh Th về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Trong vụ án này bị cáo là công dân có đủ nhận thức để hiểu được hậu quả của hành vi sai trái và những quy định cấm đoán của pháp luật đối với hành vi phạm tội, nhưng vì tham lam, vụ lợi mà bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nên cần thiết đưa ra xét xử nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này được quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có những tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự như: bị cáo có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn; tài sản thiệt hại đã thu hồi và trao trả cho chủ sở hữu.

Từ những phấn tích nêu trên, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác trong vụ án - 49 đoạn sắt, loại phi 6 có trọng lượng 08 (tám) kg, có chiều dài 70cm được uốn thành hình chữ nhật có kích thước 13cm x 17cm; 01 kìm cộng lực bằng sắt dài 1m, đã được thu hồi và trao trả cho chủ sở hữu là anh Phạm Ngọc T, anh T đã nhận lại tài sản nên không xét.

Đối với Nguyễn Văn H, do hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Công an huyện Tân Phú xử phạt hành chính số tiền 2.500.000đồng về hành vi “trộm cắp tài sản”.

Đối với bà Mai Thị Ánh H là người mua 01 cái kìm cộng lực bắng sắt của Hơn và Th nhưng bà Hồng không biết tài sản do trộm cắp mà có nên không xem xét xử lý là có cơ sở.

Đối với xe mô tô mà H sử dụng để chở Th đi trộm cắp tài sản, xe này H đã trả cho chủ sở hữu nhưng không rõ nhân thân lai lịch. Cần tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào làm rõ được thì xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa anh T vắng mặt và không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh đối với bị cáo, hình phạt, xử lý vật chứng và các vấn đề khác.

[9] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Minh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ vào điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt: Lê Minh Th 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/3/2022.

Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về