Bản án về tội trộm cắp tài sản số 63/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 02/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 02 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 382/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đại N, sinh năm: 1993; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: T; Nơi sinh: C; Nơi thường trú: số 09B/NL, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: không; Họ và tên cha: Nguyễn Văn N1, sinh năm 1970 (sống); Họ và tên mẹ: Triệu Thị Thanh T1, sinh năm 1973 (sống); Vợ: Huỳnh Kim N2, sinh năm 1994; Con: chưa có con.

Tiền án, tiền sự: chưa Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh, kể từ ngày 07/02/2023. Sau đó, bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N, thành phố C bắt tạm giam trong vụ án khác, kể từ ngày 10/5/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận N, thành phố C.

2. Họ và tên: Nguvễn Trường P, sinh ngày: 25/3/2006; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Bé B; N3 sinh: C; Nơi thường trú: số 09B/NL, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: không; Họ và tên cha: Nguyễn Văn N1, sinh năm 1970 (sống); Họ và tên mẹ: Triệu Thị Thanh T1, sinh năm 1973 (sống) Tiền án, tiền sự: chưa Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh kể từ ngày 17/4/2023.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện cho bị cáo P: bà Triệu Thị Thanh T1, sinh năm 1973; địa chỉ số I, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C

Bị hại:

Bà Huỳnh Kim N2, sinh năm 1994. Vắng mặt Địa chỉ số 09B/NL, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C.

Ông Nguyễn Trường Phát S năm: 25/3/2006;

Nơi thường trú: số 09B/NL, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Triệu Thị Thanh T Địa chỉ: số 09B/NL, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C.

Người bào cha, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyễn Trường P: Ông Trần Hoàng B1, sinh năm 1975 - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Triệu Thị Thanh T1 có 02 người con trai là Nguyễn Đại N và Nguyễn Trường P cùng sinh sống với nhau tại nhà số I, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C. Khoảng tháng 5/2022, N có kết hôn với Huỳnh Kim N2 và sau đó N2 về sống cùng với gia đình bên chồng. Quá trình sống cùng nhau thì trong khoảng thời gian từ khoảng tháng 9/2022 đến ngày 20/10/2022, P có 02 lần lén lút lấy trộm tài sản riêng của vợ chồng N. Đến khoảng cuối tháng 10/2022, vợ chồng N dọn ra ở riêng, tuy nhiên do cần tiền tiêu xài và biết được P mới mua xe mô tô nên ngày 10/12/2022, N đã quay về nhà mẹ ruột lấy trộm 01 xe mô tô của P nhằm mục đích đem đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài. Hành vi phạm tội của Nguyễn Đại N và Nguyễn Trường P cụ thể như sau:

1. Hành vi vi phạm của Nguyễn Trường P:

Lần thứ nhất: vào một buổi chiều ngày của tháng 9/2022, Huỳnh Kim N2 có tháo 01 chiếc nhẫn bằng vàng 18K hình tròn có đính hột đá tròn màu trắng trọng lượng 0,8 chỉ từ tay trái ra để ở trên nệm trong phòng riêng của vợ chồng N2 rồi đi vào nhà vệ sinh tắm. Lúc này do N2 không đóng cửa phòng nên khi Nguyễn Trường P đi ngang qua phát hiện chiếc nhẫn vàng trên nên đã lấy trộm rồi đến ngày hôm sau P mang chiếc nhẫn lấy trộm được đến Tiệm vàng Loan Đ, địa chỉ số A, đường B, khu vực B, phường L, quận B, thành phố C bán được số tiền 2.500.000 đồng và tiêu xài hết. Đối với Huỳnh Kim N2 sau khi phát hiện mất tài sản thì có nói lại cho Nguyễn Đại Nam b sự việc, tuy nhiên lại không đến cơ quan Công an trình báo. Lần thứ hai: vào chiều ngày 20/10/2022, bà Triệu Thị Thanh T1 có mượn xe mô tô biển kiểm soát 65C1-xxxxx của Huỳnh Kim N2 để đi việc riêng, sau khi về đến nhà thì bà T1 có đưa chìa khóa nhờ Nguyễn Trường P mở cốp xe mô tô để lấy đồ. Trong lúc P mở cốp xe thì phát hiện tài sản gồm: 01 đôi bông tai bằng vàng 18K trọng lượng 0,3 chỉ, 01 nhẫn cưới bằng vàng 18K trọng lượng 0,5 chỉ và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 65C-xxxxx nên P đã lấy trộm số tài sản này cất giấu ở phòng riêng của mình. Đến ngày hôm sau, P mang 01 đôi bông tai bằng vàng 18K trọng lượng 0,3 chỉ và 01 nhẫn cưới bằng vàng 18K trọng lượng 0,5 chỉ đến Tiệm V, địa chỉ tại số B, đường N, phường L, quận C, thành phố C bán với giá 1.500.000 đồng và tiêu hết số tiền này. Tương tự lần trước sau khi phát hiện mất tài sản thì N2 không có trình báo Công an mà có nói lại cho N và bà T1 biết, sau đó N và bà T1 có hỏi P thì P có thừa nhận lấy tài sản của N2, đồng thời có chỉ dẫn Nam đến Tiệm V để chuộc lại nhưng không được do số vàng trên đã được nấu thành nguyên liệu. Do không chuộc lại được tài sản nên bà T1 có chủ động bỏ ra 5.000.000 đồng để đền bù cho N2 mua lại số vàng nữ trang khác và chỉ chỗ P cất giấu giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 65C-xxxxx cho N lấy đưa cho N2.

Tại Kết luận định giá tài sản số 07/KT-HĐĐGTS ngày 06/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B, thành phố C kết luận: 01 đôi bông tai bằng vàng 18K tròn trơn có móc gài trọng lượng 0.3 chỉ có giá mua vào là 1.089.000 đồng và giá bán ra là 1.143.000 đồng; 01 nhẫn bằng vàng 18K hình tròn có đính hột đá nhỏ tròn màu trắng trọng lượng 0,5 chỉ có giá mua vào là 1.815.000 đồng và giá bán ra là 1.905.000 đồng.

Đối với tài sản là 01 chiếc nhẫn bằng vàng 18K hình tròn có đính hột đá tròn màu trắng trọng lượng 0,8 chỉ, Nguyễn Trường P lấy trộm của Huỳnh Kim N2 lần thứ nhất vào khoảng tháng 9/2022 do không xác định được thời gian lấy trộm cụ thể nên không có cơ sở tiến hành định giá được.

Kết luận giám định độ tuổi trên người sống số 173/KLGDDT-TTPYCT ngày 07/4/2023 của Trung tâm Pháp y, Sở Y tế thành phố c kết luận: Qua quá trình khám giám định, kết quả cận lâm sàng, xác định Nguyễn Trường P có độ tuổi từ 17 năm đến 17 năm 06 tháng (tại thời điểm giám định ngày 03/4/2023).

Về dân sự, Huỳnh Kim N2 đã nhận đủ số tiền 5.000.000 đồng do bà Triệu Thị Thanh T1 bồi thường nên không yêu cầu gì thêm.

2. Hành vi vi phạm của Nguyễn Đại N:

Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 10/12/2022, sau khi uống cà phê xong, Nguyễn Đại Nam n bạn là Nguyễn Hoàng L dùng xe mô tô hiệu Wave loại alpha biển kiểm soát 65D 1-xxxxx chở N về nhà mẹ ruột tại số I, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C để lấy đồ. Khi đi đến một con đường nội bộ dẫn vào nhà thì N kêu T dừng chờ, sau đó N vào trong nhà lén lút lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner 150 màu đen biển kiểm soát 95E1-xxxxx của Nguyễn Trường P rồi dẫn bộ ra để nhờ L kè đẩy đi và nói là mang đi sửa xe. Theo chỉ dẫn của N, L kè đẩy xe ra đường N theo hướng quận B đi về quận N rồi sau đó rẽ vào đường Cái Sơn - H thì bị lực lượng Cảnh sát hình sự Công an quận N, thành phố C kiểm tra phát hiện.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe mô tô hiệu Wave loại alpha biển kiểm soát 65D1-xxxxx và 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner 150 màu đen biển kiểm soát 95E1-xxxxx.

Tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKSBT ngày 06/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố C đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đại N và Nguyễn Trường P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại Nguyễn Trường P yêu cầu được nhận lại xe Honda loại Winner 150 màu đen biển kiểm soát 95E1-xxxxx.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Triệu Thị Thanh T1 yêu cầu nhận lại xe mô tô hiệu Wave loại alpha biển kiểm soát 65D1-xxxxx.

Người bào chữa cho bị cáo P: thống nhất với việc truy tố đối với bị cáo P. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi vi phạm đến khi xét xử, bị cáo P chưa đủ 18 tuổi nên suy nghĩ còn nông cạn, nhận thức pháp luật còn hạn hẹp. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã khắc phục xong, gia đình bị cáo khó khăn nên thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt đối với bị cáo.

Quan điểm của Kiểm sát viên: vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các bị cáo thành khẩn khai báo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tương ứng. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Đại N và Nguyễn Trường P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Trường P 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đại N từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày chấp hành án Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: trả bà T1 01 xe Wave alpha biển kiểm soát 65D1-xxxxx, trả bị cáo P 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner 150 màu đen biển kiểm soát 95E1-xxxxx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Căn cứ khoản 1 Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự, vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân quận B, thành phố C.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện, trong khoảng thời gian từ khoảng tháng 9/2022 đến ngày 20/10/2022, P lén lút lấy trộm của Huỳnh Kim N2 01 chiếc nhẫn bằng vàng 18K hình tròn có đính hột đá tròn màu trắng trọng lượng 0,8 chỉ, 01 đôi bông tai bằng vàng 18K trọng lượng 0,3 chỉ, 01 nhẫn cưới bằng vàng 18K trọng lượng 0,5 chỉ. Tại kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 06/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B, thành phố C kết luận: 01 đôi bông tai bằng vàng 18K tròn trơn có móc gài trọng lượng 0.3 chỉ có giá mua vào là 1.089.000 đồng và giá bán ra là 1.143.000 đồng; 01 nhẫn bằng vàng 18K hình tròn có đính hột đá nhỏ tròn màu trắng trọng lượng 0,5 chỉ có giá mua vào là 1.815.000 đồng và giá bán ra là 1.905.000 đồng. Đối với tài sản là 01 chiếc nhẫn bằng vàng 18K hình tròn có đính hột đá tròn màu trắng trọng lượng 0,8 chỉ, Nguyễn Trường P lấy trộm của Huỳnh Kim N2 lần thứ nhất vào khoảng tháng 9/2022 do không xác định được thời gian lấy trộm cụ thể nên không có cơ sở tiến hành định giá được.

Đối với Nguyễn Đại N, khoảng 18 giờ 40 phút ngày 10/12/2022, sau khi uống cà phê xong Nguyễn Đại Nam nhờ bạn là Nguyễn Hoàng L dùng xe mô tô hiệu Wave loại alpha biển kiểm soát 65D1-xxxxx chở N về nhà mẹ ruột tại số I, khu vực Bình Phó B, phường L, quận B, thành phố C để lấy đồ. Khi đi đến một con đường nội bộ dẫn vào nhà thì N kêu L dừng chờ, sau đó N vào trong nhà lén lút lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner 150 màu đen biển kiểm soát 95E 1-xxxxx của Nguyễn Trường P nhằm mục đích đem đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài. Tại Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 03/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B, thành phố C kết luận xe mô tô hiệu Honda loại Winner 150 màu đen biển kiểm soát 95E 1-xxxxx của Nguyễn Trường P trị giá 19.000.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố C truy tố các bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về lượng hình: Việc lấy tài sản của người khác mà các bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người thân trong gia đình nhưng lại tìm cách để lấy tài sản của nhau. Vì vậy cần xử lý nghiêm đối với các bị cáo để giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: thống nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Nguyễn Đại N, Nguyễn Trường P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 50, điểm i, s khoản 1, Điều 51, Bộ luật Hình sự.

Điều 47, Điều 106, Điều 326, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản ý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đại N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án Áp dụng: khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 50, điểm b, i s khoản 1, Điều 51, Điều 50, Điều 65, Điều 91 Bộ luật Hình sự.

Điều 47, Điều 106, Điều 326, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản ý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trường P 09 (chín) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Trường P cho Ủy ban nhân dân phường L, quận B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bà Triệu Thị Thanh T1 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave alpha biển kiểm soát 65D1-xxxxx màu xanh đen bạc, số máy JA39E2457129, số khung RLHJA3923MY431916, xe đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Trường P 01 xe mô tô hiệu Honda loại Winner 150 màu xanh đỏ đen (màu sơn thực tế là màu đen) biển kiểm soát 95E1-xxxxx, số máy KC 26E1050792, số khung 2605GY219602, xe đã qua sử dụng.

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo N, bị cáo P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa cho bị cáo P, người đại diện cho bị cáo P có quyền kháng cáo. Đối với bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố C xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về