TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ mở phiên toà công khai xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 64/2023/TLST-HS ngày 25/8/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
Dương Văn V, sinh ngày 01/01/1989 tại Quảng Nam; Nơi cư trú: Thôn N, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương T (đã chết) và bà Hà Thị T1 (còn sống). Có vợ là Trần Thị Hồng K, có 02 con (lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015); Tiền án: Chưa.
Tiền sự: Ngày 28/02/2023, bị UBND xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Quyết định số 05/QĐ-XPHC ngày 28/02/2023).
Ngày 27/5/2022 bị Công an xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Quyết định số” 15/QĐ-XPHC ngày 27/5/2022).
Nhân thân: Ngày 25/5/2023, bị Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, kể từ ngày 05/4/2023 (Quyết định số 19/2023/QĐ-TA ngày 25/5/2023).
Bị cáo hiện đang chấp hành cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở xã hội B, TP Đà Nẵng; Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Ông Nguyễn Viết T2, sinh năm 1981; Địa chỉ: Tổ C, phường H, quận C, TP Đà Nẵng; có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 04/4/2023, trên đường đi về phòng trọ tại K đường C, phường H, quận C, TP Đà Nẵng, Dương Văn V nhìn thấy xe ô tô BKS 37A-948.5x hiệu Toyota Fortuner của anh Nguyễn Viết T2 đang đỗ trước số nhà A đường N, quận C, TP Đà Nẵng nhưng cửa xe vị trí người điều khiển đang mở và không có người trông coi nên V nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. V đột nhập vào xe ô tô của anh T2 mở hộp tỳ tay lấy trộm 01 cục sạc dự phòng hiệu Xmobile màu xám; 01 tẩu sạc hiệu Hoco; 02 dây sạc màu trắng; 01 dây sạc màu đen, hiệu Drapow và 153.000 đồng cầm trên tay định tẩu thoát thì bị anh T2 phát hiện, truy hô và đuổi bắt được V cùng tang vật.
Tang vật thu giữ: 01 cục sạc dự phòng hiệu Xmobile màu xám; 01 tẩu sạc hiệu Hoco; 02 dây sạc màu trắng; 01 dây sạc màu đen, hiệu Drapow và 153.000 đồng.
Theo Kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐGTS ngày 25/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận C xác định: 01 cục sạc dự phòng hiệu Xmobile màu xám; 01 tẩu sạc hiệu Hoco; 02 dây sạc màu trắng; 01 dây sạc màu đen, hiệu Drapow có trị giá: 247.000 đồng (Hai trăm bốn mươi bảy nghìn đồng).
Tổng giá trị tài sản bị cáo Dương Văn V trộm cắp là 400.000 đồng.
Với nội dung trên, tại Bản cáo trạng số 67/CT-VKSCL ngày 24/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Dương Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Người bị hại ông Nguyễn Viết T2 vắng mặt tại phiên tòa, tài liệu hồ sơ và tại đơn xin xét xử vắng mặt thể hiện, bị hại Nguyễn Viết T2 đã nhận lại các tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì thêm; về hình sự, bị hại xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo Dương Văn V đã khai nhận toàn hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng; bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng tội, không oan. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Dương Văn V về tội “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Dương Văn V mức án từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Các tài sản bị cáo chiếm đoạt của người bị hại, cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại là có cơ sở.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Dương Văn V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:
Ngày 28/02/2023 Dương Văn V đã bị UBND xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính (còn tiền sự) nhưng V không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục trộm cắp tài sản của người khác nhằm mục đích tiêu xài cá nhân. Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 04/4/2023, tại trước số nhà A đường N, quận C, TP Đà Nẵng, Dương Văn V đã đột nhập vào xe ô tô BKS 37A-948.5x của anh Nguyễn Viết T2 lấy trộm 01 cục sạc dự phòng hiệu Xmobile màu xám; 01 tẩu sạc hiệu Hoco; 02 dây sạc màu trắng; 01 dây sạc màu đen, hiệu Drapow và 153.000 đồng cầm trên tay định tẩu thoát thì bị anh T2 phát hiện, truy hô và đuổi bắt được V cùng tang vật. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 400.000 đồng.
Như vậy, mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp trong vụ án này có giá trị dưới 2 triệu đồng, tuy nhiên bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Do đó lần trộm cắp tài sản này của bị cáo Dương Văn V đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là loại tội phạm ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xử lý hành chính, trong đó 01 lần bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, tiền sự này của bị cáo là yếu tố cấu thành định tội danh, ngoài ra bị cáo còn nhiều lần bị xử lý hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, đối với các bị cáo cần xử phạt nghiêm, để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung, cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức án như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và quyết định hình phạt.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, phạm lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; người bị hại cũng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét, giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài liệu có tại hồ sơ vụ án thể hiện người bị hại đã nhận lại các tài sản bị cáo chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với các tài sản bị cáo trộm cắp của của bị hại, sau khi phục vụ công tác định giá tài sản, cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho bị hại là có cơ sở.
[7] Về án phí: Bị cáo Dương Văn V phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 điều 173; Điểm h, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Dương Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Dương Văn V 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Viết T2, người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Dương Văn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niên yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST
Số hiệu: | 62/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về