Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 02/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 6 năm 2023, tại Hội trường Trung tâm văn hóa, thông tin và thể thao huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2023/HS-ST ngày 12/5/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2023/QĐXXST-HS ngày 18/5/2023, đối với bị cáo:

LÝ MINH T (T A) - sinh năm: 1992; tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Ấp 7, xã Ph Th, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Ngọc H (đã chết) và bà Phạm Thị B (đã chết); vợ, con; Chưa có; tiền sự, nhân thân: Không.

Tiền án: Ngày 16/5/2013, bị Tòa án nhân dân Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 36/2013/HS-ST.

Ngày 17/7/2014, bị Tòa án nhân dân Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 47/2014/HS-ST.

Ngày 19/01/2017, bị Tòa án nhân dân Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại Bản án số 08/2017/HS-ST.

Ngày 26/11/2019, bị Tòa án nhân dân Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 117/2019/HS-ST.

Bị cáo hiện đang bị tạm giữ từ ngày 09/3/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (có mặt tại phiên tòa).

* Ngườị bị hại: Ông Nguyễn Hữu T – sinh năm 1990. (có yêu cầu xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 7, xã Ph Th, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý Minh T là đối tượng có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 1 tiền án về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” chưa được xóa án tích. Lần gần nhất là ngày 26/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 20/10/2022, Lý Minh T chấp hành xong án phạt tù, trở về địa phương sinh sống.

Vào khoảng 18 giờ, ngày 05/3/2023, Lý Minh T ra phía sau nhà mình ở ấp 7, xã Ph Th, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai phát hiện trên đất rẫy nhà ông Nguyễn Hữu T có lắp đặt hệ thống ống nước để tưới cây không có người trông coi. Do T không có tiền để mua hệ thống ống nước lắp đặt để tưới cây rẫy nhà mình nên T nảy sinh ý định trộm cắp ống nước đem về nhà sử dụng. T qua rẫy nhà ông T tháo dỡ hệ thống ống nước gồm: 02 đoạn ống nước nhựa màu đen phi 34 dài 10 mét, 09 đoạn ống nước bằng nhựa phi 27 dài 43 mét, 13 đầu béc phun nước màu xanh, 13 ren gắn ống nhựa phi 21, 13 đoạn ống nhựa Bình Minh phi 21 dài mỗi đoạn 20 cm. T đem toàn bộ tài sản trên về nhà mình. Sau khi bị mất tài sản, ông Nguyễn Hữu T trình báo Công an xã Phú Thịnh. Ngày 09/3/2023, Lý Minh T ra Công an xã Phú Thịnh đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Hữu T.

Tài sản thiệt hại: Ông Nguyễn Hữu T bị thiệt hại 02 đoạn ống nước nhựa màu đen phi 34 dài 10 mét, 09 đoạn ống nước bằng nhựa phi 27 dài 43 mét, 13 đầu béc phun nước màu xanh, 13 ren gắn ống nhựa phi 21, 13 đoạn ống nhựa Bình Minh phi 21 dài mỗi đoạn 20 cm.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐGTS ngày 13/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phú xác định tổng trị giá 664.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 72/CT-VKSTP-ĐN ngày 12/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Lý Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, không bổ sung gì thêm.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lý Minh T về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lý Minh T từ 10 tháng tù đến 12 tháng. Thời hạn tù tính từ ngày 09/3/2023.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Nguyễn Hữu T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

Về xử lý vật chứng: 02 đoạn ống nước nhựa màu đen phi 34 dài 10 mét, 09 đoạn ống nước bằng nhựa phi 27 dài 4 mét, 13 đầu béc phun nước màu xanh, 13 ren gắn ống nhựa phi 21, 13 đoạn ống nhựa Bình Minh phi 21 dài mỗi đoạn 20 cm, là của ông Nguyễn Hữu T làm chủ sở hữu bị mất cắp nên Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người bị hại ông Nguyễn Hữu T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét trong quá trình điều tra ông Tân đã có lời khai đầy đủ và cũng không có yêu cầu gì đối với bị cáo T việc vắng mặt của ông Nguyễn Hữu T không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Lý Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa nên có căn cứ để xác định: Vào ngày 05/3/2023, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu lén lút trộm cắp 02 đoạn ống nước nhựa màu đen phi 34 dài 10 mét, 09 đoạn ống nước bằng nhựa phi 27 dài 43 mét, 13 đầu béc phun nước màu xanh, 13 ren gắn ống nhựa phi 21, 13 đoạn ống nhựa Bình Minh phi 21 dài mỗi đoạn 20 cm của ông Nguyễn Hữu T, tổng trị giá 664.000 đồng. Mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng tại thời điểm phạm tội bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích. Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo Lý Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Lý Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục, răn đe cũng như phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[5] Về tiền sự: Không có.

[6] Về tiền án, nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền án về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tuy nhiên, bị cáo không biết ăn năn hối cải và lấy đó là bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do lỗi có ý nên cần có mức án nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu tình tiết “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội nhưng gây hậu quả không lớn; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[9] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo Lý Minh T ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo sửa chữa những sai lầm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Nguyễn Hữu T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên trách nhiệm dân sự không đặt ra đối với bị cáo.

[11] Về xử lý vật chứng: Đối với 02 đoạn ống nước nhựa màu đen phi 34 dài 10 mét, 09 đoạn ống nước bằng nhựa phi 27 dài 43 mét, 13 đầu béc phun nước màu xanh, 13 ren gắn ống nhựa phi 21, 13 đoạn ống nhựa Bình Minh phi 21 dài mỗi đoạn 20 cm do ông Nguyễn Hữu T làm chủ sở hữu bị mất cắp nên Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

[12] Quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

 [13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

 [14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Khoản 1 Điều 292, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án 1. Tuyên bố: Bị cáo Lý Minh T (T A) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lý Minh Tài (T A) 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 09/3/2023).

3. Về án phí: Bị cáo Lý Minh T (T A) phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 02/6/2023).

Đối với người bị hại vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2023/HS-ST

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về